Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

XƯNG HÔ TRONG ĐẠO




Một lần về quê giúp lễ, sau khi chia sẻ Lời Chúa với cộng đoàn, một cụ ông thuộc hàng cao niên nhất trong làng (gọi là trưởng làng) lại là người trong họ hàng bà con nói với tôi rằng: “Cháu đừng gọi tất cả cộng đoàn là anh chị em, vì trong đó còn có các cụ đáng kính ngồi dưới. Nghe khó chịu lắm. Mà cháu chỉ là bậc con cháu. Ngay các cha về đây dâng lễ cũng phải thưa đầy đủ là “kính thưa quý cụ ông, cụ bà và toàn thể anh chị em”. Tôi suy nghĩ nhiều lắm. Thực ra thì không phải là mình không biết điều ấy. Song chỉ vì muốn cho việc thưa gửi được gọn gàng mà thôi. Không ngờ lại đụng chạm tới tính tự ái của các cụ cao tuổi. Nhưng dù sao lời nhắc nhở ấy cũng là một bài học đầu đời để rút kinh nghiệm về sau.
Nhân khi đọc bài “Chúa ở  cùng anh chị em” của Cha Đỗ Xuân Quế trong tài liệu Thánh Nhạc và Phụng Vụ “Hát Lên Mừng Chúa” số 88, tôi liền mở sách lễ Rôma và các sách phụng vụ thì thấy đúng là Giáo hội không có câu chào nào khác ngoài câu “Chúa ở cùng anh chị em”. Mà cũng chẳng có dự trù  công thức nào khác nữa. Vì thế, xưa nay người ta chỉ dám phổ nhạc câu này mà thôi, chứ chưa ai dám phổ nhạc câu “Chúa ở cùng quý cụ ông, cụ bà và anh chị em…” hay “Chúa ở cùng cộng đoàn”. Có lẽ những câu xưng hô này mới được áp dụng gần đây, nên Giáo hội còn đang phải cân nhắc chăng hoặc chỉ nói “anh chị em” là đầy đủ nghĩa rồi. Tuy nhiên thực tế thì xảy ra vấn đề như vừa nói trên. Chắc còn nhiều điều thắc mắc khác nữa trong vấn đề này.
Theo cá nhân tôi nghĩ thì có lẽ cũng do lòng tự trọng của mỗi người hoặc do kiến thức giáo lý, phụng vụ và thần học nên người giáo dân của ta hay thắc mắc xem ra có vẻ như là mình đòi hỏi điều gì thì Giáo hội phải làm theo ý muốn của mình. Lại nữa, tuổi tác là điều khá quan trọng đối với các cụ nên không được… vơ đũa cả nắm! Vì vậy, việc xưng hô trong khi cử hành phụng vụ bây giờ xem ra cũng là để tự do tùy vị chủ tế sao cho phù hợp với tương quan với cộng đoàn. Chẳng hạn, thánh lễ toàn thiếu nhi mà Cha cứ thưa là “anh chị em thân mến” thì cũng không phù hợp hay lại cứ thưa một cách máy móc gồm cả quý cụ ông, cụ bà và toàn thể anh chị em thì tức cười lắm! Hoặc thánh lễ an táng mà linh mục chủ tế chẳng có câu thưa nào với tang gia thì…. lơ là quá! Tôi hiểu thêm rằng ngoài ý nghĩa thần học của chữ “anh chị em” dùng trong phụng vụ nó còn bị ảnh hưởng bởi văn hóa của Tây nữa. Vì tiếng nước ngoài không có kiểu xưng hô rắc rối như của ta. Trong khi đó, công thức phụng vụ là của Rôma áp dụng cho toàn thể Giáo hội.
Tôi đi tham dự những thánh lễ lớn thấy vị chủ tế nhiều khi thưa phải nói đầy đủ “Kính thưa các cha bề trên, các cha quản hạt, các cha xứ,… các chủng sinh, các nam nữ tu sĩ và toàn thể anh chị em thân mến”. Câu này dài quá. Nếu một thánh lễ vị chủ tế chỉ cần thưa 3 lần như thế là giáo dân đã đủ mệt rồi! Tuy nhiên có lúc không thể bỏ hoàn toàn kiểu thưa như vậy. Nhưng làm sao đừng máy móc rập khuôn quá. Điều ấy còn dễ tạo ra trong ý thức của cộng đoàn một sự phân biệt tầng lớp trong Giáo hội nói chung và khi cử hành phụng vụ nói riêng. Bởi vậy, nếu vị chủ tế lỡ miệng nói sai trật tự thứ cấp là người  giáo dân cười hoặc xì xèo ngay. Cách riêng trong phụng vụ thì thôi tốt nhất là đơn giản hóa bao nhiêu có thể. Vì trong thánh lễ sau đó chúng ta cùng nhau đọc kinh Lạy Cha và xưng hô với Chúa là ‘Lạy Cha chúng con,…’ Chúng ta là con Chúa cả với nhau thì phải là anh chị em với nhau. Còn cứ theo nghĩa của tiếng Việt: cụ, ông, bà là cấp trên cha! Nhưng nếu mình có cầu nguyện riêng tư mà xưng hô cho đầy đủ vai vế thì đâu có sao. Chẳng hạn ta cầu xin Chúa cho cụ nội, cụ ngoại, bố mẹ con, cha xứ của con, v.v… thì lại là điều tốt quá.
Rồi trong thực tế cuộc sống hằng ngày nhiều khi cũng lắm chuyện rắc rối từ vấn đề xưng hô theo kiểu nhà đạo của ta. Làm linh mục rồi nhưng người ta không biết nên cứ gọi là thầy thì cũng tự ái, không vui; nhiều khi còn mất cảm tình hoặc cáu gắt với người ta. Khấn dòng rồi mà người ta không biết nên cứ gọi là đệ tử thì cũng buồn, xem như mình bị hạ thấp phẩm giá! Là Cha bề trên tổng quyền, cha Quản hạt, Cha tuyên úy, Cha văn phòng, Cha quản lý, Cha cố rồi mà người ta chỉ gọi là Cha không thì nhiều khi cũng bị đánh giá là không tế nhị; có khi bị Cha… không trả lời! Cho nên trong phụng vụ chúng ta cũng chỉ đáp “Và ở cùng Cha” sau tiếng “Chúa ở cùng anh chị em” dù chủ tế có là Đức Thánh Cha, Đức Hồng Y, Đức Giám Mục, Cha bề trên,… đi nữa. Chính vị chủ tế đại diện cho Chúa Kitô mà cũng không đòi phải thưa rườm rà, thế thì đâu có cần phải thưa với cộng đoàn phụng vụ một cách đầy đủ vai vế, tuổi tác? Vì nếu phải thưa đầy đủ vai vế, chức vị của cộng đoàn thì còn nhiều, như là: giáo sư, bác sỹ, kỹ sư, tiến sĩ, cử nhân, giám đốc,… Mà điều này khi cử hành phụng vụ đã có vị chủ tế nào thưa cho đầy đủ đâu, có phải là thiếu sót không?
Hầu như quan niệm của chúng ta vẫn còn đặt nặng vào việc xưng hô thế nào cho lễ phép do ảnh hưởng lâu của thời đại phong kiến. Từ cái quan niệm ấy làm cho thái độ của ta cũng vậy mà nhiều khi lệch lạc nữa. Như là quen khúm núm sợ sệt trước mặt các đấng các bậc trong hội thánh; ví dụ: hễ Cha mà kiệu Mình Thánh Chúa đi ngang qua thì giáo dân thinh lặng quỳ rạp xuống đất thờ lậy; còn khi thừa tác viên bình thường cũng kiệu Mình Thánh Chúa đi qua, có giúp lễ rung chuông hẳn hoi mà người ta cứ tỉnh bơ! Trong nhà thờ, thiếu nhi sợ Cha xứ hơn sợ Chúa!
Đổi mới một quan niệm khó lắm, nhất nữa là quan niệm ấy đã ăn sâu vào ý thức của ta. Chúa Giêsu dạy ta rằng: “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa” (Ga 13, 13).
Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
Gp. Bùi Chu

Nguồn: 
 http://www.conggiaovietnam.net

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

KIỆT TÁC TỪ CÂY CẢNH

Ngỡ ngàng kiệt tác từ cây cảnh

Tới thăm triển lãm Mosaiculture, du khách được mãn nhãn với những tác phẩm từ cây cảnh.
Được đánh giá là lễ hội uy tín nhất thế giới để tôn vinh nghệ thuật làm vườn, triển lãm Mosaiculture 2013 vừa khai mạc tuần qua tại vườn bách thảo Montreal, Quebec, Canada.

Hơn 3 triệu bông hoa tươi tắn đã được trồng trong các nhà kính trên khắp vùng đất Quebec và được đưa tới vườn bách thảo vào tháng 5. Từ thời điểm này, các bậc thày về nghệ thuật làm vườn mới dùng các khung thép để uốn hoa và tỉa cành, biến chúng thành các tác phẩm nghệ thuật sống động.

Các tượng điêu khắc từ cây cỏ này được tạo ra nhờ các khung thép hoặc nhôm, đổ đầy đất bên trong để nuôi sống các loài hoa, cỏ và giữ cho màu sắc của chúng luôn tươi tắn. Một hệ thống tưới nước ngầm đã được lắp đặt để các bông hoa có thể tươi được qua mua hè, tới tận ngày kết thúc triển lãm vào 29.9.

Trên chiều dài 2,2 km của triển lãm, khoảng hơn 50 tác phẩm nghệ thuật độc đáo đã được tạo dựng. Chủ đề của năm nay là “Miền đất hy vọng”. Hơn 200 nghệ nhân làm vườn tài năng nhất thế giới, đến từ 20 quốc gia đã được mời về tham gia triển lãm.

Các tác phẩm điêu khắc được thực hiện từ hơn 22.000 giống cây cảnh và được bố trí trong 30 vườn ngoài trời và 10 nhà kính trồng hoa trong khuôn viên vườn bách thảo.

Mosaiculture là một ý tưởng về làm vườn, ra đời ở Montreal từ năm 2000 và cứ ba năm lại được tổ chức một lần tại một thành phố khác. Ba năm trước, lễ hội được tổ chức ở Thượng Hải và đến năm nay lại được tổ chức rầm rộ ở chính quê hương Montreal.

Theo Tri Thức Thời Đại



    và Muà Hè Hoa thật rực rỡ .




 (tinmung.net)

Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

THÁNH GIÁ " KIỂU ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICO"

Thánh giá “kiểu Đức giáo hoàng Phanxicô”

Tôi không để ý đến Thánh giá Đức giáo hoàng Phanxicô mang trên ngực cho đến khi một bạn trẻ hỏi tôi rằng: “Cha ơi, tại sao Thánh giá của Đức giáo hoàng Phanxicô lại không phải là tượng chịu nạn, mà là một mẫu Thánh giá lạ quá? Mẫu Thánh giá đó có ý nghĩa gì? Xin cha giải thích giùm con”.
Thánh giá trên ngực Đức giáo hoàng Phanxicô được thiết kế đơn giản và rõ nét. Đó là hình ảnh một mục tử vác con chiên trên vai, phía sau lưng là đàn chiên và trên đầu có một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần.
1. “Kiểu Đức Phanxicô”
Khi mới được bầu làm giáo hoàng, Đức Phanxicô mang cây Thánh giá bằng sắt mạ bạc. Và một nguồn tin từ Vatican cho biết đó là thánh giá ngài vẫn mang từ khi làm giám mục ở Buenos Aires.
Không biết mẫu Thánh giá này xuất hiện đầu tiên khi nào và tác giả là ai. Nhưng người ta thấy mẫu này có bán tại nhà sách nổi tiếng Ancora ở Rôma từ năm 2004.
Kể từ ngày kết thúc Mật tuyển viện, 13/3/2013, khi Đức hồng y Jorge Mario Bergoglio trở thành Giám mục Rôma, thì tại Vatican xuất hiện một mẫu Thánh giá mới lạ mà người ta gọi là “kiểu Đức Phanxicô”; và nó đã trở thành một biểu tượng cho phong cách đơn giản của ngài.
Và cũng kể từ đó, kiểu Thánh giá này được ưa chuộng. Đài tuyền hình Rome Reports, trong bản tin ngày 30/6/2013, cho biết mức tiêu thụ Thánh giá kiểu Đức giáo hoàng gia tăng nhanh tại Rôma: “Nhà sách này nổi tiếng không những vì tọa lạc trên đại lộ Hòa Giải – Via della Conciliazione – mà còn vì bán được rất nhiều Thánh giá kiểu Đức giáo hoàng” [1].
Linh mục Luciano Orsi, giám đốc nhà sách Ancora, nói: “Thánh giá này cùng một kiểu như Thánh giá Đức giáo hoàng đeo. Chúng tôi đã bán mẫu này trong nhiều năm qua kể từ năm 2004. Nhưng trước đây, chúng tôi chỉ có thể bán một hoặc hai chiếc mỗi năm, bởi vì mẫu này không được ưa chuộng. Nhưng trong ba tháng qua, chúng tôi đã bán được rất nhiều” [2].
2. Vài thắc mắc
Có nhiều người thắc mắc: Tại sao Thánh giá Đức giáo hoàng Phanxicô đeo không phải là tượng chịu nạn?
Nhưng tôi đặt lại vấn đề: Tại sao người ta cứ đòi ngài mang tượng chịu nạn mà không phải là tượng khác? Bởi vì, không có một quy định nào yêu cầu giáo hoàng phải mang tượng chịu nạn cả.
Thực ra, có một truyền thống bất dịch quy định các giám mục, trong đó có Giám mục Rôma, phải đeo thánh giá trước ngực.
Các vị giáo hoàng trước đây thường đeo Thánh giá bằng vàng, có hình Chúa Giêsu chịu nạn hay một hình nào đó. Và Thánh giá Đức Phanxicô ở trường hợp sau: đó là hình một mục tử vác chiên trên vai.
Chúng ta cũng có thể thấy một số giám mục đeo Thánh giá mà không có hình Chúa Giêsu chịu nạn. Bởi vì điều đó không bắt buộc.
Có một nơi khác bắt buộc phải có một Thánh giá Chúa chịu nạn, đó là trong nhà thờ. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma năm 2000 quy định: Trên hoặc gần bàn thờ, kể cả ngoài thánh lễ, thường xuyên phải có một thánh giá, có tượng Đức Kitô chịu đóng đinh, mà cộng đoàn có thể nhìn thấy rõ ràng, để nhắc tín hữu cuộc thương khó cứu độ của Chúa (xem các số 117, 120, 122, 308).
Phải chăng vì dựa vào quy chế này mà người ta cứ nghĩ rằng giáo hoàng phải luôn luôn đeo tượng Chúa Giêsu chịu nạn?
Tôi nghĩ vấn đề của chúng ta là tìm hiểu ý nghĩa của biểu tượng, chứ không phải phàn nàn về một hình ảnh mới lạ.
3. Ý nghĩa của biểu tượng
Đã có người giải thích rằng biểu tượng trên ngực Đức giáo hoàng, diễn tả Chúa Giêsu nằm ngủ trên Thánh giá, là một sự dung hòa giữa tượng Chúa chịu nạn và Thánh giá suông.
Về phần mình, tôi không nghĩ như thế. Nhưng tôi muốn tìm ý nghĩa biểu tượng này nơi Thánh kinh và thần học.
Thật vậy, hình ảnh người mục tử và đàn chiên có nguồn gốc từ Cựu Ước, tượng trưng cho mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân riêng của Người. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh này trong dụ ngôn con chiên lạc, để chỉ Thiên Chúa là Đấng Chăn Chiên Nhân Lành đi tìm người tội lỗi. Có một người kia đi tìm con chiên lạc; khi “tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai” (Lc 15,5).
Tác giả Tin mừng Matthêu cũng thuật lại dụ ngôn này, và nói về Thiên Chúa như một người cha “không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (18,14). Như thế, Tin mừng Matthêu nhắm đến trách nhiệm của các vị lãnh đạo đối với những thành viên nhỏ bé, không có tiếng nói trong cộng đoàn.
Con chiên lạc được tìm lại là biểu tượng của ơn cứu độ (Mk 4,6-7; Gr 23,1-4; Ed 34,11-16). Và Thánh giá cũng là dấu chỉ của ơn cứu độ.
Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến niềm vui mừng của Thiên Chúa khi tìm lại được người tội lỗi; và Người cũng mời gọi thính giả chia sẻ niềm vui đó (x. Lc 15,25-32). Nên việc Đức Phanxicô mang kiểu Thánh giá này nhằm biểu dương niềm vui ơn cứu độ.
Thật vậy, trong dịp Đại hội Giới trẻ Thế giới, Đức giáo hoàng đã mời gọi Kitô hữu sống trong niềm vui: “Kitô hữu thì vui mừng, họ không bao giờ u sầu”. Và ngài thêm: “Nếu chúng ta thật sự ở trong tình yêu Đức Kitô và nếu chúng ta nhận ra Người yêu chúng ta biết bao, thì tâm hồn chúng ta sẽ “sáng lên” một niềm vui, tỏa lan đến mọi người xung quanh” (Bài giảng trong Thánh lễ tại Đền thánh Đức Mẹ Aparecida ngày 24-07-2013).
Về phương diện thần học, chúng ta có thể đọc được nơi bài giảng của Đức Bênêđictô XVI khi ngài nói về ý nghĩa dây Pallium. Dây Pallium mà Giám mục Rôma khoác lên vai, được đan kết bằng lông chiên thật.
Bênêđictô XVI cho rằng: “Lông chiên là biểu tượng cho chiên bị lạc lối, yếu ớt và đau bệnh. Người mục tử sẽ vác chiên ấy trên đôi vai mình để đưa đến nguồn suối sự sống”.
“Đối với giáo phụ ngày xưa, dụ ngôn con chiên lạc mà mục tử tìm thấy nơi sa mạc chính là hình ảnh mầu nhiệm Chúa Kitô và Hội thánh. Mỗi một người trong chúng ta chính là những con chiên lạc trong sa mạc không còn biết lối về”.
“Con Thiên Chúa sẽ không thể để điều này xảy ra; Ngài không thể bỏ mặc con người trong tình trạng thê thảm như thế. Ngài đã từ bỏ vinh quang thiên quốc và bước đi bằng chính đôi bàn chân trần để tìm kiếm những con chiên này và theo đuổi chúng đến tận cùng của con đường Thánh giá. Ngài mang chúng trên đôi vai mình và mang cả nhân loại; Ngài vác tất cả chúng ta trên vai – Ngài chính là Mục tử Nhân lành đã thí mạng vì đàn chiên” (Bài giảng Chúa nhật ngày 24/4/2005 tại Quảng trường thánh Phêrô).
Tôi thiết nghĩ đó là ý nghĩa của Thánh giá “kiểu Đức Phanxicô”, và có lẽ cũng là châm ngôn sống mà vị Giám mục Rôma đang theo đuổi.

Lm Phạm Quang Long
Nguồn: 
 http://www.hdgmvietnam.org

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

CÂU CHUYỆN BÁT MÌ




Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31-12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
*********

Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho nên đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới.

Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ. Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phác, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân.

Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào.
Đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.
- Xin mời ngồi!

Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:
- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?

Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.
- Đương nhiên... đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.

Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:
- Cho một bát mì.

Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau.
- Ngon quá - thằng anh nói.
- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.

Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen: "Thật là ngon! Cám ơn!" rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.
- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.

Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31-12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ.

Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.
- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?
- Đương nhiên... đương nhiên, mời ngồi!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:
- Cho một bát mì.

Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:
- Vâng, một bát mì!

Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:
- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?
- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.

Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: "Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!".

Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.
- Thơm quá!
- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!
- Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!

Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.
- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!

Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.

Đến ngày 31-12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện.
Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả.
Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là "200đ/bát mì" và thay vào đó giá của năm ngoái "150đ/bát mì".
Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy "Đã đặt chỗ".

Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến.
Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đều đã lớn rất nhiều.
- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.

Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:
- Làm ơn nấu cho chúng tôi... hai bát mì được không?
- Được chứ, mời ngồi bên này!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy "Đã đặt chỗ" đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì".
- Vâng, hai bát mì. Có ngay.
Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi. Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.

- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!
- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?
- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.
- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.

Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.
- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!
- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?
- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.
- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.
- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần, chúng ta phải cố gắng lên!
- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!
- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.
- Có thật thế không? Sau đó ra sao?
- Thầy giáo ra đề bài: "Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?",

Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: "Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc". Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa.

Lại còn: "Vào tối 31-12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa. Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn".
Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: "Cố gắng lên! Chúc hạnh phúc! Cám ơn!".

Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.
- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.
- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?
- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: "Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vã về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì, đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được... Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con".

Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về.

Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:
- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!

Lại một năm nữa trôi qua. Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy "Đã đặt chỗ" nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện. Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.

"Việc này có ý nghĩa như thế nào?". Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ.

Bàn số hai "cũ" trở thành "cái bàn hạnh phúc", mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này. Rồi rất nhiều lần 31-12 đã đi qua. Lại một ngày 31-12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay.

Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người. Mọi người rất vui vẻ. Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai.
Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn... Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.

Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại.
Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên. Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:
- Làm ơn... làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?

Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp bắp nói:
- Các vị... các vị là...

Một trong hai thanh niên tiếp lời:
- Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lực để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô.
Cuối cùng, ý định nung nấu từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.

Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vã nhả ra, đứng dậy nói:
- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao? Mau tiếp khách đi chứ! Mau lên!
Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:
- Ồ phải... Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.
Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:
- Có ngay. Ba bát mì.

Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm.

Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng: chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi.

Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt, nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang lại sự ấm áp cho mọi người.

                                                                                 (BÙI DUY KHUÊ)





Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Ý NGHĨA MỘT SỐ CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÂU NÓI







Ý NGHĨA MỘT SỐ CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÂU NÓI

__I.N.R.I :


Viết tắt của câu La-tinh "Iẽsus Nazarẽnus Rẽx Iũdaeõrum - Giê-su người Na-gia-rét, Vua dân Do Thái"

Khi viết bảng án, Phi-la-tô đã truyền viết bằng 3 ngôn ngữ :
*Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: "Giê-su người Na-gia-rét, Vua dân Do Thái". Trong dân Do Thái có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Ðức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng Híp-ri, La-tinh và Hy Lạp. Các thượng tế của người Do Thái nói với Phi-la-tô: "Xin ngài đừng viết: "Vua dân Do Thái" nhưng viết: "Tên này đã nói : Ta là Vua dân Do Thái"." Ông Philatô trả lời: "Ta viết sao, cứ để vậy".* (Ga 19, 19)
Do vậy, thỉnh thoảng ta bắt gặp các Thánh giá đề chữ I.N.B.I là viết tắt bản án trong tiếng Hy Lạp : "ησος Ναζωραος Bασιλες τν ουδαίων"

___IC và XC : 

IC là viết tắt của tên "Giê-su" trong tiếng Hy Lạp (ΙΗΣΟΥΣ)
XC là viết tắt của danh hiệu "Ki-tô" trong tiếng Hy Lạp (ΧΡΙΣΤΟΣ)
(C là dạng viết của Σ trong tiếng Hy Lạp)
Do vậy, IC XC có nghĩa là Giê-su Ki-tô. Các kí tự này thường xuất hiện trên Thánh giá hoặc bên cạnh Chúa Giê-su trong các icon (ví dụ như bức "Đức Mẹ hằng cứu giúp").

___М.Л.Р.Б và Г.А :

Hai cụm chữ viết tắt này thường xuất hiện phía dưới chân Chúa Giê-su trong các ảnh Thánh giá kèm theo hình đầu lâu. Đầu lâu đó là đầu lâu của A-đam, tượng trưng cho sự chết. Đặt đầu lâu ấy dưới chân thập giá tượng trưng cho sự chiến thắng của Chúa Giê-su trên cái chết và tội lỗi của A-đam. 
Thánh Phao-lô đã viết : "Nhưng sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Ðức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người." (Rm 5, 15.20)
М.Л.Р.Б là viết tắt của Место лобное рай бысть, tiếng Slav có nghĩa là "Đây là nơi đặt đầu lâu của A-đam" và Г.А là viết tắt của глава Адамла, tiếng Slav có nghĩa là "Đầu lâu của A-đam"

___ A và Ω (α và ω) :

Đây là hai kí tự đầu và cuối trong bảng chữ cái Hy Lạp, trong sách Khải huyền có chép : "Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng." (Kh 21, 5). Chính Chúa Giê-su là Ngôi Lời, Lời đầu tiên tạo thành muôn vật (St 1) và là lời sau cùng phán xét muôn vật.

___ Hình ảnh con cá (ΙΧΘΥΣ) :

Hình ảnh con cá được các Ki-tô hữu sơ khai dùng để ám chỉ Chúa Ki-tô và xác định căn tính của mình. Vào thời bắt đạo, để biết người đối diện có phải Ki-tô hữu hay không, các tín hữu vẽ một nửa (một nửa chữ anpha như trẻ nhỏ hay vẽ bây giờ), nếu đối phương vẽ tiếp nữa còn lại thì cả hai có thể nhận biết nhau, còn nếu không thì chắc chắn đó không phải Ki-tô hữu và cũng không ai phát hiện được mình. Từ "con cá - ΙΧΘΥΣ" là viết tắt của "Ίησος Χριστός, Θεο Υός, Σωτήρ", trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu độ". Hình ảnh con cá cũng được đề cập đến rất nhiều lần trong Kinh Thánh, mỗi lần hình ảnh này xuất hiện là mỗi lần ta thấy Chúa Giê-su biểu lộ tình thương và quyền năng của Người (xin xem Lc 24, 41 - 43 hoặc Mt 13, 47 - 50 hoặc Ga 21,11 hoặc Mt 17,24-27)


NGƯỜI CÔNG GIÁO

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

LỄ GIỖ GIÁP NĂM LM ANTON PHAN LÂM - LINH HƯỚNG HTDC HÒA HƯNG 1967-1972


Trước 1975 ,  giáo xứ An Hòa , Đà nẵng là nơi PT HTDC  phát triển mạnh mẽ ở miền Trung , thì ở trong Nam , giáo xứ Hòa Hưng , là trọng điểm  thu hút giới trẻ của PT HTDC ở Sài Gòn  .
Đến nay dù đã qua gần 40 năm , tuy không còn sinh hoạt chung với thanh thiếu niên trong giáo xứ ,  nhưng anh chi em đoàn viên HTDC , các cựu HTR vẫn giữ được bộ đồng phục  của mình , vẫn sinh hoạt thường kỳ  riêng theo nhóm với nhau  - dù rằng ở những  hình thái sinh hoạt tập thể khác  - , và hơn thế nữa , vẫn một lòng  với tôn chỉ  và mục đích của  PT HTDC .
Tất cả mọi sự là công lao của nhiều người , nhiều thế hệ ; nhưng trước hết là công lao của một LM  linh hướng HTDC lúc bấy giờ : Cha Anton PHAN LÂM .

LM AnTon PHAN LÂM sinh năm 1932 tại Phát Diệm
Thụ phong LM  năm 1962
Sau khi làm phó xứ Hà Nội ,Hố Nai , phó xứ Sao Mai , Chí Hòa , Ngài về làm phó xứ giáo xứ Hòa Hưng , Sài Gòn  từ 1967 đến năm 1972 . 1972 -1975 cha Lâm qua Roma học về Giáo luật .
Thời gian 1967-1972 Ngài là LM Linh hướng cho HTDC giáo xứ Hòa Hưng , SG . Thời gian này là thời kỳ PTHTDC phát triển mạnh mẽ và rộng khắp cả nước .
Sau 1975 , Ngài sang Hoa kỳ và từng phục vụ tại Tòa Án Hôn Phối của Gp. Oakland,
                      phụ trách một số giáo xứ như St.Anthony, St.Lawrence O’Toole…
Cha Lâm dự tính về VN để tổ chức mừng Kim Khánh  50 năm Linh Mục
Các anh chị cựu Hùng Tâm Dũng Chí ở Hoà Hưng (do ngài phụ trách) chuẩn bị đón ngài về  VN  vào thứ ba 07.08.2012, thế mà ngài không về VN mà lại sớm ra đi không trở lại vào ngày 5-08-2012 tại St.Rose Hospital, Oakland, Hayward, CA, USA.
Mai táng tại Holy Sepulchre, Hayward, CA, USA  .
Hưởng thọ 81 tuổi , không kịp mừng Kim Khánh Linh Mục ở VN .


Ngày 05-08-2013 , các cựu  HTr HTDC , các đoàn viên HTDC giáo xứ Hòa Hưng  cùng một số cựu HTR HTDC Đà Nẵng , Trà Kiệu , Huế  …đã cùng  tham dự Thánh lễ  kỷ niệm giáp năm ngày giỗ LM ANTON PHAN LÂM  do Cha Hạt trưởng  Phú thọ  LM J. Phạm Bá Lãm cùng các LM Anton Trường Thăng , Cha Hùng , Cha Tâm  đồng tế tại nhà thờ giáo xứ Hòa Hưng , SG . 

                                                                                                                               cht






























  (hình ảnh : Ninh Nguyễn  cHtr HTDC Hòa Hưng SG )