Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

XIN ĐỪNG KHÓC THƯƠNG TÔI , SUDAN


Phim tài liệu đầy tình người thật xúc động

                           
  (xem phim truyện "Xin đừng khóc thương tôi Sudan" đầy xúc động về cuộc đời của Linh Mục Gioan Lee Tae Suk phía dưới) 

            Cha Gioan Lee là linh mục dòng Salêriêng Don Bosco. Tốt nghiệp bác sĩ y khoa nhưng cha đã bỏ tất cả công danh sự nghiệp sau lưng, và cha đã đáp lại tiếng gọi mãnh liệt của Thiên Chúa để trở thành một linh mục truyền giáo trong dòng Salêriêng Don Bosco. Ngay sau khi được truyền chức linh mục tại Tòa Thánh Vatican, cha đã tình nguyện đến truyền giáo tại miền Nam Sudan thuộc Phi Châu. Cha đã từ bỏ tất cả công danh, sự nghiệp của người bác sĩ để trở thành linh mục. Và hơn thế nữa, cha còn muốn trở thành người mục tử nhân lành sống giữa đoàn chiên nghèo khổ để chăn dắt họ. Vì thế nên cha đã tình nguyện đến sống tại một xứ sở nghèo đói nhất thế giới, giữa những người đói khổ và bệnh tật trong làng Tonj thuộc miền Nam Sudan- Phi Châu trong suốt 8 năm trước khi cha qua đời vị căn bệnh ung thư ruột già. Cuốn phim tài liệu: “Don’t Cry for Me Sudan” năm 2010 (“Đừng Khóc Thương Tôi - Sudan”) đã chia sẻ về cuộc đời truyền giáo của linh mục Gioan Lee Tae Suk và là cuốn phim sẽ tham dự Đại hội điện ảnh lần thứ 61 tại Bá Linh vào năm tới- 2013.



             Sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó gồm 10 anh chị em, cha Gioan Lee Tae Suk là người con thứ chin. Năm cha lên 9 tuổi, người bố qua đời để lại gánh nặng gia đình trên đôi vai người mẹ. Người mẹ đã phải tần tảo làm nghề may vá để nuôi nấng đàn con 10 anh chị em. Ngay từ khi còn bé, cha Gioan Lee đã phải sống trong cảnh nghèo khó. Sân chơi của cha chính là ngôi nhà thờ gần nhà. Ngay khi còn học bậc tiểu học, cha đã tỏ ra yêu thương các người nghèo khổ và có ý tưởng thành lập một cô nhi viện cho các trẻ em mồ côi. Một ngày nọ, khi chứng kiến cảnh một người ăn xin nghèo khó, rách rưới mà cha (lúc đó là một cậu bé) không có gì để giúp đỡ người ăn xin này. Cha đã chạy về nhà và hỏi mượn người chị 1 cây kim và sợi chỉ để khâu lại chiếc quần rách rưới cho người ăn xin. Sống trong tuổi thơ nghèo túng, có những ngày cậu bé Gioan Lee Tae Suk đã phải ngồi chờ mẹ về ở ngoài đường, trong con hẻm gần nhà… Do đó, tuổi thơ của cha đã sớm cảm thông với những nỗi bất hạnh của con người. Khi lên bậc trung học, cha đã tự học đàn Guitar và chơi dương cầm… Năng khiếu âm nhạc đến với cha một cách tự nhiên và dễ dàng. Có lẽ đó là nguồn cảm hứng giúp cha giải bày những xúc động ẩn chứa trong tâm hồn khi chứng kiến những cảnh nghèo đói, bất công và bệnh tật của những người nghèo khổ trong xã hội. Cha đã tự sáng tác ra những bản nhạc lúc còn học ở trung học. Những bản nhạc này như một cầu nối giúp cha đến gần với Thiên Chúa. Cha đã chia sẻ những cảm nhận của mình qua âm nhạc. Âm nhạc đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời của cha, giúp cha sống đạo hạnh hơn ngay khi còn là một học sinh bậc trung học. Và sau này, trong cuộc đời truyền giáo của mình, âm nhạc đã giúp cha đến được với những đứa trẻ quen sống trong cảnh bạo lực tại Nam Sudan và từ đó, âm nhạc đã giúp cha chuyển hướng tâm hồn chúng thành những đứa trẻ đầy năng khiếu sáng tạo trong âm nhạc. 
                                                                  
Là một trong những đứa trẻ rất nghèo, nhưng cha Gioan Lee Tae Suk đã cố gắng học và thi đậu vào trường y khoa – một nơi mà ngay cả những đứa trẻ nhà giàu được cho ăn học tử tế - cũng rất khó được chọn vào. Và cha đã trở thành một bác sĩ y khoa với con đường giàu sang và danh vọng mở rộng trước mặt; được trở thành một người giàu sang, quyền quí và được xếp vào bậc thượng lưu trong xã hội. Viễn ảnh tương lai thật huy hoàng ngay trước mặt….Nhưng sau những năm tháng phục vụ như một bác sĩ y khoa trong quân đội, cha đã cảm nhận được tiếng gọi mãnh liệt của Thiên Chúa. Và cha đã quyết định từ bỏ tất cả con đường sự nghiệp đang mở rộng thênh thang trước mắt để bước vào dòng tu Salêriêng- Don Bosco và trở thành linh mục - người của Chúa. Đứng trước sự chọn lựa của cha, người mẹ đã đau đớn vì phải hy sinh trong suốt bao năm tháng nuôi con trưởng thành; nay lại nhìn thấy viễn cảnh của cuộc sống khó nghèo do bởi sự chọn lựa  đó của con mình. Người mẹ đã không đành lòng mất đi người con yêu dấu sau những tháng ngày vất vả nuôi nấng con nên người. Nhưng rồi bà cũng phải nhận ra Ơn gọi mãnh liệt mà Thiên Chúa đã gieo vào tâm hồn cậu bé Gioan Lee Tae Suk ngay những ngày còn nhỏ. Cha đã biết ơn người mẹ đã hy sinh trọn vẹn cuộc sống để lo cho đàn con. Và giờ đây, lại một lần nữa, người mẹ đó đã hy sinh những danh vọng lẽ ra sẽ nhận được nếu người con tiếp tục con đường phục vụ như một người bác sĩ tại nơi chính quê nhà của ông – Hàn quốc. Người mẹ cuối cùng đã nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa đối với con mình còn cao cả hơn tất cả những gì mà thế gian mang lại. Thế là Gioan Lee Tae Suk bước vào dòng tu Salêriêng- Don Bosco.
            
Vào những năm tháng còn ở chủng viện, thầy Gioan Lee Tae Suk đã có lần được đến thăm miền Nam Sudan- Phi Châu. Ở nơi đó đã xảy ra cuộc chiến tranh Nam- Bắc vào năm 1983, và cuộc chiến đó đã tàn phá khủng khiếp đất nước này. Cuộc chiến đã làm hơn hai triệu người bị chết và đã để lại bao nhiêu tang tóc cho những người dân quê nghèo khổ. Những người còn sống sót sau chiến tranh thì lại bị chết vì bệnh tật và nghèo đói. Họ phải sống nơi một vùng đất mà nguồn nước uống bị ô nhiễm trầm trọng.
            Do đó, ngay sau buổi lễ truyền chức linh mục tại Vatican- Rome, cha Gioan Lee Tae Suk đã xin tình nguyện đến phục vụ tại miền Nam nước Sudan ở Phi Châu. Tại nơi đây, vào năm 2001, cha đã mở phòng khám bệnh đầu tiên tại Nam Sudan, và là người bác sĩ duy nhất tại đó. Mỗi ngày, cha khám và chữa trên 300 bệnh nhân. Có những bệnh nhân đã đi bộ hàng trăm Kilômét để đến với cha. Có cả những người phải đi bộ 2-3 ngày đường để đến được nơi phòng khám. Mỗi ngày đều có 30-40 người chờ đợi để được khám bệnh. Nhận thấy nhu cầu quá lớn của những người dân tại Nam Sudan, cha đã quyết định xây một bệnh viện bằng những viên gạch do chính tay cha và dân làng tự làm nên. Cha đã đặt mua xi măng từ Kenya và lấy cát từ dòng sông Tonj thuộc Nam Sudan. Dưới cái nóng trên 50 độ C, cha đã cùng làm việc với những người dân làng để đúc những viên gạch và dung chính những viên gạch đó để xây dựng thành một bệnh viện. Năm 2007, bệnh viện do cha Gioan Lee Tae Suk và dân làng xây được hình thành gồm 12 phòng. Nơi đây, cha đã chữa trị cho các bệnh nhân bị bệnh phổi, tiêu chảy, sốt rét, các phụ nữ mang thai, các trẻ em cần chủng ngừa dịch tả v.v…
            Cha không bao giờ từ chối bất kỳ một bệnh nhân nào đến với cha, ngay cả vào ban đêm khi cha đang yên ngủ sau một ngày làm việc mệt nhọc. Khi có những bệnh nhân đang trong tình trạng nguy kịch đến cầu cứu cha vào ban đêm, cha vẫn sẵn lòng giúp họ mà không một lời phàn nàn than trách. Các bệnh nhân vẫn liên tục kéo đến với hy vọng được cha chữa lành các vết thương cả thể xác lẫn tâm hồn. Với họ, cha là một người cha và là một thầy thuốc. Cha đã đến với họ bằng tất cả tình yêu thương mà họ chưa bao giờ được ban phát. Cha là hiện thân của Chúa Giêsu trong trái tim và tấm lòng của họ. Tại nơi này không có nguồn điện. Do đó, cha đã tự làm những tấm năng lượng mặt trời để tạo ra nguồn điện dùng để cung cấp điện năng cho các tủ lạnh để bảo quản các loại thuốc chủng ngừa cho trẻ em. Mỗi ngày thứ Tư trong tuần, cha lái xe đến 8 ngôi làng khác nhau để chữa bệnh cho những người phong cùi, mù lòa ... khi họ không thể đi xa được, mà chỉ có thể ngồi tại nhà của họ. Thậm chí, có những người không có ai chăm sóc thì bị chết trong nhà mà không ai hay biết. Cha luôn sẵn sàng giúp đỡ bất kỳ ai cần đến Ngài.
 Năm 2005, khi hòa bình được tái lập giữa miền Nam và Bắc Sudan, bảo đảm sự an ninh khi di chuyển; thì đến năm 2006, cha bắt đầu chương trình thăm viếng các bệnh nhân bị phong cùi khi họ không thể bước chân ra khỏi nhà. Trước khi cha đến, họ đã chết mà cũng không biết chết vì bệnh gì?
             Cha đã thành lập một ngôi làng cho những người mắc bệnh phong ở và cấp thuốc để chữa trị và ngăn ngừa chứng bệnh lây lan. Cha là người duy nhất yêu thương họ, đến với họ và lắng nghe họ. Mỗi lần cha đến thăm họ, cha không bao giờ đi với hai bàn tay không. Cha luôn có quà cho tất cả mọi người, khi thì là những cái áo, khi thì là những đôi vớ, lúc thì là những cái quần, những đôi giày, những cái áo ấm v.v... Cha là người đã khâu những vết thương đầy máu mủ nơi chân tay những người bệnh phong và băng bó vết thương cho họ. Cha đã đo chân từng người và đặt làm những đôi giày cho họ mang để họ bớt đau đớn mỗi khi di chuyển. Không hề có một rào cản nào ngăn cách giữa cha và những người  mắc bệnh phong cùi này. Họ đã sống trong hạnh phúc vì đã được yêu thương mặc dù họ rất nghèo và bị xã hội bỏ rơi. Cha là một linh mục đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc đã từ bỏ đất nước của mình và sang phục vụ bên Phi Châu. Cha đã sống và đã hội nhập để trở thành một người dân làng Tonj.
            Trong cuốn tự truyện: “Các con là những người bạn của cha”, cha đã chia sẻ động lực thúc đẩy cha đến miền Nam Sudan là: Ngay khi còn nhỏ, cha đã cảm nhận được sự hy sinh của người mẹ nuôi nấng và lo lắng, chăm sóc cho đàn con 10 người. Lớn lên, cha nhìn thấy gương hy sinh phục vụ của các cha, các soeur nơi cha sinh trưởng; và nhất là của chính một người anh làm linh mục, và một người chị làm nữ tu. Đặc biệt hơn cả là sự hy sinh tận cùng của người mẹ khi chấp nhận cho cha từ bỏ con đường sự nghiệp của người bác sĩ để trở thành linh mục. Bà mẹ đã từ bỏ sự hưởng thụ giàu sang khi có con làm bác sĩ để sẵn sàng nâng đỡ cha khi Ngài quyết tâm đi theo lời mời gọi của Chúa. Chính những tấm gương sáng đó đã là những động cơ thúc đẩy cha lên đường đi đến Sudan- một nơi nghèo khổ nhất trên thế giới để phục vụ cho những người nghèo, bệnh tật và bất hạnh. Ở nơi đó, cha là người đã xây dựng một ngôi trường học đầu tiên từ cấp mẫu giáo đến cấp trung học. Các giáo sư được cha mời đến từ Keyna để dạy cho các em. Và chính cha cũng đã dùng thời gian eo hẹp của mình để dạy môn toán cho các em.
            Nhìn cảnh các trẻ em ngay từ nhỏ đã làm quen với súng đạn, cha quyết tâm phát triển năng khiếu âm nhạc nơi tâm hồn các em để thay những khẩu súng trong tay các em thành những chiếc kèn đồng. Cha đã dùng âm nhạc để xoa dịu những vết thương chiến tranh trong lòng các em. Thế là cha đã hy sinh những giờ ngủ để tập những nhạc cụ, tập thổi kèn trước rồi sau đó dạy cho các em học. Và cuối cùng, giấc mơ của cha đã thành hiện thực. Một đội kèn đầu tiên ở Nam Sudan đã được thành lập. Cha đã xin các ân nhân để gửi tặng những bộ đồng phục của ban kèn cho các em mặc. Cha nâng đỡ những đứa trẻ và phát triển tài năng về âm nhạc của chúng để chống lại bạo lực tại nơi đây. Khi tâm hồn những đứa trẻ bị tan vỡ do những vết thương chiến tranh tạo ra, qua âm nhạc, chúng sẽ tìm được niềm vui và hy vọng. Đây là một biến cố vô cùng trọng đại trong một đất nước bị tàn phá quá nhiều do bởi chiến tranh. Đối với những người dân tại Sudan thì có được một ban kèn là một sự việc ngoài trí tưởng tượng của họ, và là một biến cố gây kinh ngạc mãnh liệt cho họ. Vì từ đây, những đứa trẻ không còn cầm súng trên tay mà thay vào đó là những chiếc kèn mang lại những âm thanh của hòa bình, tình yêu và hy vọng….
 
Nhưng thật đau buồn thay, trong một chuyến nghỉ hè vào tháng 10/2008: Khi trở về Hàn Quốc, cha đã làm một cuộc xét nghiệm sức khỏe tổng quát theo lời khuyên của một bác sĩ, và cha đã phát hiện ra mình đang mang chứng bệnh ung thư ruột già ở giai đoạn cuối. Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, cha vẫn chiến đấu dũng cảm với cơn bệnh qua 14 lần chạy hóa trị (chemotherapy) để mong được trở về lại Sudan thăm các em. Cũng trong những ngày tháng chữa bệnh này, cha đã viết cuốn sách: “Các con là những người bạn của cha”. Và cuốn sách đã được phát hành vào tháng 05/2009. Một tháng trước khi về với Chúa, biết mình không thể trở lại Sudan được, cha đã mời hai em trong đội kèn đến thăm cha tại Hàn Quốc. Và tại đây, cha đã bảo trợ cho hai em đó được vào học đại học.
 Cuối cùng, vào ngày 14/01/2010, cha đã ra đi về với Chúa khi đã sống trọn vẹn 48 năm cuộc đời tại dương thế với những ngày tháng phục vụ trọn vẹn cho những người đau khổ, bệnh tật, phong cùi, nghèo đói ... tại Sudan. Ngày 16/01/2010 là thánh lễ an táng cha tại nhà dòng Saleriêng – Don Bosco. Cha đã ra đi trong nụ cười, còn những người ở lại đã đưa tiễn cha trong những giọt nước mắt của đau đớn và tiếc thương. Mặc dù cha đã ra đi về với Chúa, nhưng Niềm Tin của cha đã biến thành hiện thực. Cha đã sống và đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời của cha cho những người đau khổ và bất hạnh.
             Tin cha qua đời bay đến Sudan và những người dân ở đây đã đau đớn và không thể chấp nhận một thực tại phũ phàng, quá nhiều mất mát cho họ. Họ khóc thương cha như khóc thương một người thân yêu duy nhất đã yêu thương họ, đã chăm sóc tận tình cho họ, đã chia sẻ và ủi an họ với một tình yêu đồng lọai mà họ chưa từng được biết đến. Có những người dân làng xa xôi đã đi bộ hơn 4 ngày trời để được đến tham dự nghi thức tiễn biệt cha lần cuối tại ngôi Thánh đường mà chính cha đã cùng với họ xây cất nên. Họ mang trên tay những tấm ảnh của cha như muốn níu kéo cha ở lại mãi với họ. Các em trong ban kèn đã diễn hành từ căn nhà thương- nơi cha xây dựng và chữa bệnh đến ngôi thánh đường- nơi cử hành nghi thức tiễn biệt người cha thân yêu của họ. Tất cả những người dân làng từ khắp nơi kéo về, có những người đã đi bộ hơn 400Km để đến tham dự nghi thức tiễn biệt cha lần cuối. Những dòng nước mắt khóc thương cho một người cha hiện thân của Tình Yêu và Hy Vọng; hiện thân của Chúa Giêsu trong tâm hồn họ. Chính cha là người đã xoa dịu và chữa lành bao vết thương nơi thể xác lẫn tâm hồn của những người dân đau khổ đang sống tại một nơi nghèo nhất thế giới văn minh này.
             Tại nơi đây, những người dân làng đơn sơ, chất phát đã khóc thương cha như khóc thương người cha tinh thần của họ. Trong tâm hồn và trong trái tim của họ đã không còn ranh giới giữa giàu sang và đói khổ, mà chỉ còn lại tình yêu và sự đau xót nhớ thương. Họ đau đớn vì đã mất đi một con người đã đến sống và ở giữa họ; đã yêu thương và trao tặng họ món quà vô giá của tình người. Họ đau đớn vì đã không còn một niềm an ủi và hy vọng giữa cảnh sống nơi một xã hội mà họ đang bị bỏ rơi một cách nghiệt ngã.
 Cha Gioan Lee Tae Suk không chỉ là một người cha, một linh mục mà cha đã là TẤT CẢ của họ. Cha đã sống và đã rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu bằng chính cuộc đời của cha. Cha là hiện thân của Chúa Giêsu trong lòng những người dân làng Tonj tại Nam Sudan, nơi mà bản thân họ đang phải chịu đựng những tổn thương do bởi một xã hội đầy rẫy những bất công và một thế giới tràn ngập những đau khổ tạo ra… Cha đã gieo những hạt giống của Đức Tin và Tình Yêu trong tâm hồn những người dân đau khổ và bất hạnh này. Sự ra đi của cha ở độ tuổi 48 khi Ngài còn đang tha thiết muốn phục vụ và được phục vụ những người dân nghèo là một nỗi đau và là sự mất mát không thể bù đắp nơi tâm hồn của những người dân làng Tonj đầy bất hạnh này. Nhưng Niềm Tin mà cha đã gieo rắc và vun đắp trong trái tim và tâm hồn của các trẻ em, nơi các người già yếu, bệnh tật, phong cùi, mù lòa v.v… ; Niềm Tin đó vẫn sống mãi trong lòng họ… Vì trong một thế giới đầy đầy bất hạnh và bạo lực này, vẫn đang có những bàn tay và những tâm hồn của những người môn đệ theo chân Chúa, những ngừời đang hy sinh cả cuộc đời để sống cho Tình Yêu của Chúa, và mang Tình Yêu đó xoa dịu những vết đau và lau rửa những vết thương trong tâm hồn và nơi thể xác của bao người bất hạnh.
             Trong năm Đức Tin này, hy vọng mỗi người chúng ta cũng sẽ là những bàn tay nối dài của Thiên Chúa. Những bàn tay của những tâm hồn được lớn mạnh trong Đức Tin và được nuôi dưỡng trong Ân sủng để có thể sẵn sàng chia sẻ và làm chứng về Tình Yêu Thiên Chúa cho mọi người. Ước chi cuộc sống chứng nhân của cha Gioan Lee Tae Suk trong thời đại hôm nay luôn sống động trong lòng của tất cả mọi người chúng ta. Qua đó, mỗi người chúng ta cũng sẽ trở nên những người truyền giáo, rao giảng Tin Mừng của Chúa qua chính những việc làm bác ái và yêu thương, cùng với những đóng góp xây dựng một thế giới trong hòa bình qua việc chia sẻ, nâng đỡ, ủi an và yêu thương những người kém may mắn, bất hạnh hơn chúng ta.
             Xin thân ái kính chúc Cộng đòan dân Chúa sống năm Đức Tin tràn đầy Ân sủng và Tình Yêu của Thiên Chúa và qua Ơn lành từ mẫu của Mẹ Maria.
Orange, Ngày 16 Tháng 10 Năm 2012
Maria Trần Thị Lệ Xuân
Cộng Đòan Chúa Kitô Vua- Giáo xứ St. Columban
Bấm vào Xem phim trên Youtube /a>




Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

ĐỊNH MỆNH CỦA NHỮNG NGƯỜI GIÀU CÓ


Chúng ta ai cũng thuộc nằm lòng câu chuyện người phú hộ và Lazarô ăn mày. Nhưng chưa chắc chúng ta đã hiểu như nhau và nhất là biết hiểu đúng ý của tác giả Luca.
Thánh Luca kể rằng có một người phú hộ ăn mặc gấm tía và lụa mịn, ngày ngày yến tiệc linh đình. Nếp sống của ông ta làm cho chúng ta nhớ lại bài sách của Amos. Và quả thật, ông ta chỉ biết ăn uống, chứ đâu có để mắt tới đồng bào, đồng loại gì... Có người ăn mày tên là Lazarô, nằm ở cổng nhà ông chỉ mong được miếng thừa nào trên bàn của ông liệng xuống mà vẫn không được. Cũng là hai con người, nhưng là hai thân phận. Tác giả Luca không cần mô tả thêm con người giàu có. Ðã có Amos kể thay rồi. Ngòi bút của Luca chú ý hơn để vẽ hình ảnh người ăn mày.
Ðây là lần duy nhất trong tác phẩm, Luca đã đặt cho nhân vật trong bài dụ ngôn một tên. Thế nên chúng ta đừng nghĩ đây là một tên thật, và muốn đồng hóa với Lazarô em của Mátta và Maria. Hai chị em này đâu có nghèo đến nỗi bắt em phải đi ăn xin; Lazarô trong tác phẩm của Gioan (chương 1) không lở lói, hôi thối đến nỗi người ta phải khiêng vứt ở cổng nhà người phú hộ. Ðàng khác, dụ ngôn không phải là những câu chuyện có thật, mà chỉ là những câu chuyện có khả năng xảy ra để giúp chúng ta có một bài học đạo đức.
Nhưng tại sao tác giả Luca lại muốn gọi tên người ăn mày là Lazarô? Ðể chúng ta liên tưởng đến người em trai của hai chị em Mátta và Maria được Chúa thương cho sống lại? Và như vậy Luca muốn báo trước số phận tốt đẹp chung cuộc của người ăn xin. Và khi mô tả Lazarô lở lói, bị vứt ở cổng nhà người phú hộ, có lẽ tác giả muốn lấy lại hình ảnh ông Yob và xác định đây là con người nghèo khó công chính, bị bạc đãi ở đời này nhưng chỉ là tạm thời, vì chung cuộc tương lai sẽ rất tốt. Hơn nữa, trong tiếng Do Thái, từ ngữ Lazarô có nghĩa là "Thiên Chúa cứu giúp". Tác giả Luca muốn nói rằng: những con người nghèo khó là những kẻ đang cần được và sẽ được Thiên Chúa cứu giúp; họ là thành phần được Người quan tâm, chiếu cố và yêu mến. Và Người sẽ bắt tất cả mọi sự phục vụ những con người này, nên ở đây ngay bầy chó hoang, thường chỉ đi xâu xé, thế mà đối với Lazarô chúng cũng dễ thương lạ lùng, đến liếm các ung nhọt cho ông. Và điều này càng nói lên ác tâm bất nhẫn của người phú hộ hơn nữa.
Như vậy, việc giới thiệu hai nhân vật đã xong. Tác giả Luca nói đến câu chuyện xảy ra. Lazarô chết và được các Thiên Thần đưa lên dự tiệc ngay nơi lòng Abraham; còn người nhà giàu cũng chết và được tống táng. Chỉ hai câu nói thôi, nhưng đầy ý nghĩa. Người Do Thái quan niệm rằng các người công chính sau khi chết, sẽ được các thiên thần đưa lên trời dự tiệc, giữa cộng đoàn dân Chúa có tổ phụ Abraham chủ tọa. Và ai cũng được yêu, càng được ngồi gần vị tổ phụ. Kiểu nói "ngồi trong lòng Abraham" chỉ muốn diễn tả chỗ ngồi đặc biệt và tình âu yếm ấy. Số phận của Lazarô đã đổi thay hoàn toàn. Không do một biến động chính trị như Amos đã gợi đến trong bài sách hôm nay. Cũng không như tác giả sách Yob đã nói rằng ông này được lại hết mọi sự ở đời này và được gấp trăm, gấp nghìn. Ở đây việc đổi thay số phận xảy ra ở bên kia thế giới, sau khi con người đã chết. Ðó là bình diện Nước Trời chứ không còn phải trong phạm vi trần gian.



Chúng ta hãy đọc tiếp để thấy quan niệm của tác giả Luca về đời sau và định mệnh chung cuộc của hai nhân vật trong bài dụ ngôn. Vậy, Lazarô được đưa lên trời, còn người phú hộ thì được đem đi tống táng. Một người ở trên và một người ở dưới. Kẻ ở dưới ngước mắt lên thấy hạnh phúc người ở trên. Thấy mình đang nóng nảy trong lửa, còn Lazarô thì đang an thái nơi lòng của Abraham; kẻ khổ sở tự nhiên phải buột miệng kêu lên. Xin Cha Abraham nói với Lazarô nhỏ xuống cho một chút nước để đỡ khổ. Nhưng y đã không hiểu gì. Và Abraham phải cắt nghĩa: bây giờ sự đổi thay đã dứt khoát và hố sâu ngăn cách giữa hai thế giới hạnh phúc và khổ sở không thể bắc cầu được nữa. Kẻ xưa khổ thì nay sướng và kẻ xưa sướng thì nay khổ. Chứ không như ngày xưa khi ở trên mặt đất kẻ sướng có thể đến với kẻ khổ mà chia sẻ... Nhưng vì đã không muốn làm việc ấy, nên giờ đây y đừng hy vọng bắt được nhịp cầu hiệp thông...
Câu chuyện dĩ nhiên có thể chấm dứt ở chỗ này. Và đã có nhiều bài học cho chúng ta. Ngoài những quan niệm về đời sau như: định mệnh của người lành kẻ dữ đã khác nhau ngay từ sau khi chết và trước ngày phán xét chung; định mệnh ấy đã dứt khoát không thay đổi được nữa vì đã hết thời có thể lập công phúc; ở đây khi mô tả sự thay đổi số phận của hai người trong khi sống và sau khi chết, tác giả Luca có ý diễn tả một giáo huấn thông thường của Ðức Giêsu, đó là việc Nước Trời được dành cho những kẻ nghèo khó; vì Thiên Chúa sẽ cứu giúp họ và kẻ tự mãn ở đời này sẽ ra đi tay không về đời sau.
Nhưng tác giả Luca đã không dừng lại ở những điểm này. Người muốn kêu gọi người ta "trở lại". Ðặc biệt ở đây, Người muốn nói với những người Do Thái có Abraham là tổ phụ. Họ phải thay đổi đường lối để không bị loại ra khỏi Nước Trời sau này. Tác giả Luca biết rõ họ rất cứng lòng. Trước đây khi Ðức Giêsu còn đang giảng đạo họ đòi phải thấy phép lạ điềm thiêng. Người bảo họ sẽ chẳng được xem dấu lạ nào, ngoài dấu hiệu của tiên tri Giona, tức là ngoài sự kiện chính Người sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chịu chết. Nay việc đó đã xảy ra rồi; thế mà Luca vẫn thấy họ cứng lòng. Nên hôm nay, tác giả đau đớn dùng miệng Abraham mà nói: dẫu cho có ai sống lại từ cõi chết, chúng cũng chẳng ngã lẽ đâu! Và đối với người Do Thái, chỉ còn lại hy vọng là họ hãy nghe Môsê và các tiên tri. Ấy là chưa kể chính mầu nhiệm Ðức Giêsu chịu chết và phục sinh, muốn hiểu được cũng phải tựa vào lời sách thánh kể từ Môsê cho tới các tiên tri, như chính Chúa sống lại đã làm như thế để giúp đỡ các đức tin của các tông đồ.
Như vậy bài Tin Mừng Luca hôm nay có những ý tưởng mà thoạt nghe chúng ta đã chưa nhận ra. Người đã không thuật lại câu chuyện Ðức Giêsu đã kể, một cách đơn giản đâu. Vẫn biết khi kể chuyện người phú hộ và Lazarô ăn mày, Chúa đã có ý kêu gọi thính giả của Người là người Do Thái, phải trở lại. Chúa cũng đã muốn thúc giục họ tin vào Môsê và các tiên tri vì các ông này vẫn làm chứng về Người. Nhưng chắc chắn khi Chúa nói: dẫu có ai sống lại từ cõi chết chúng cũng chẳng ngã lẽ đâu, người nghe lúc bấy giờ chưa hiểu một cách thấm thía như tác giả Luca sẽ hiểu sau này và như chúng ta vừa trình bày ở trên.
Dù sao ý tưởng chính của tác giả vẫn là muốn kêu gọi người ta trở lại và thay đổi nếp sống chỉ biết có cái bụng của mình mà không nghĩ đến ai. Thực ra đó cũng là ý của Amos khi ông dùng hình phạt lưu đày để đe dọa những kẻ sống đầy đủ mà ích kỷ. Chỉ có điều ông chưa nghĩ đến đời sau và bình diện Nước Trời một cách sâu sắc như tác giả Luca. Nhưng có như vậy Tân Ước mới hoàn tất Cựu Ước!... Tuy nhiên Tân Ước nơi các sách Tin Mừng, tức là giáo huấn đầy đủ của Chúa Giêsu cũng còn cần phải được triển khai. Và hôm nay tác giả thư Timôthê giúp chúng ta thi hành giáo huấn của Chúa.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)




Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

AI CÓ HAI ÁO THÌ CHIA CHO NGƯỜI KHÔNG CÓ

" Giáo hội  hãy trở nên giản dị hơn để phục vụ người nghèo trên khắp thế giới" .

(Đức Giáo Hoàng PHANXICO)



* Việt Nam 


                      Vẫn còn đó nhiều mảnh đời bất hạnh. Ảnh: Đồng Cảm.


Không có ghế, các em phải ngồi xổm, nhiều em cố gắng quỳ để ngó lên sân khấu trong ngày tựu trường tại trường tiểu học Thành Sơn (xã Thành Sơn , huyện Khánh Sơn, Khánh Hòa ngày 26/08/2012)




Xót xa cho 2 em bé mồ côi  này 




Không còn tay, không chân  nhưng nghị lực sống phi thường của anh khiến không ít người phải ngưỡng mộ.




                                                 Một lớp học ở vùng cao 






            Ánh mắt quan tâm, lo lắng của cậu bé dành cho người bạn bất hạnh của mình.



Hãy cảm ơn và trân trọng những gì mình

 đang có.

Và chia sẻ cho nhau những gì mình có 

 thể .




* Nước khác 












                                                                                              (ảnh sưu tầm trên net )

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

CÓ, KHÔNG - ĐƯỢC, MẤT`


Một vị thương gia lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền và sống thoải mái sung sướng… nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất.  Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử.
Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái:
- Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
Cô gái buồn bã nói:
 - Tôi bị người yêu ruồng bỏ, tôi không muốn sống nữa, bởi vì không có anh ấy tôi không sống nổi.
Vị thương gia vừa nghe xong lập tức nói:
- Ồ! Lạ nhỉ, sao lúc chưa có bạn trai, cô có thể tự sống được ?
Cô gái vừa nghe xong liền bừng tỉnh và bỏ ngay ý định tự tử.  Ngay lúc đó vị thương gia nọ cũng chợt nhận ra rằng:  Khi chưa giàu có ta vẫn sống bình thường, ta cũng tay trắng làm nên mà!
Lúc đó cô gái quay sang hỏi vị thương gia:
- Đêm hôm lạnh lẽo như vậy, anh ra đây để làm gì?
Vị thương gia ậm ừ trả lời:
- Ừ… đâu có làm gì, chỉ là tản bộ chút vậy thôi”.

Thì ra, dù đã mất tất cả… nhưng thực sự cũng chỉ bằng lúc ta CHƯA CÓ mà thôi. 
Đây là một sự thật và là một điều cần phải luôn luôn nhớ !  Phần lớn thế hệ chúng ta đã được sinh ra trong chiến tranh, đã từng lớn lên trong giai đoạn đất nước đói nghèo, có thể đã từng mất hết gia tài sản nghiệp vì chiến cuộc, đã từng ăn đói nằm rét, có khi gia sản chỉ gói gọn trong một chiếc ba-lô khi chạy di tản, khi đi vượt biên… Nhưng phải công nhận chúng ta vẫn sống, thậm chí sống yêu đời, tin tưởng vào tương lai tươi sáng… thì giờ đây, dẫu vì thời thế rủi ro, ta có thất thế sa cơ đến trắng tay thì cũng chẳng đến nỗi nào, vì trước đây ta có cái gì đâu !  Ai hiểu được điều này thì chắc chắn có sự bình an trong tâm hồn.
Suy nghĩ cho cùng, nếu quay quắt vì khổ đau, vất vả, thù hận… hay đi đến chỗ quyên sinh, thì cũng chỉ thiệt cho mình mà thôi.
Nhờ hiểu được “mọi sự đều là hư không”, nên người con gái trong câu chuyện trên khi mất người yêu cô đã nghĩ rằng, không có người yêu thì cô không sống nổi, nay chợt thấy rõ rằng trước khi chưa gặp “kẻ phản bội” kia thì “ta” vẫn tự sống và vẫn sống vui…, liền lập tức đổi ý không trầm mình xuống sông nữa.  Người thương gia trắng tay cũng đổi ý khi nhận ra rằng trước đây ta cũng từ tay trắng mà phất lên.  Bây giờ trắng tay nhưng cũng chỉ bằng ngày xưa chứ chưa mất mát tí gì.
Con người sinh ra đời với hai bàn tay trắng và dù thành công hay thất bại thì cũng trở về cát bụi với hai bàn tay không, vậy thì sá gì với “ĐƯỢC-MẤT”, “CÓ-KHÔNG”.   Bản chất của cuộc đời này là luôn luôn thay đổi, chẳng có chi là bất biến. 
Người Kitô hữu chúng ta chỉ nên hướng mọi tư tưởng hành động vào một Đấng Hằng Hữu, Bất Biến, và cố gắng sống tốt lành như Đức Giêsu truyền dậy với hy vọng sẽ được hưởng hạnh  phúc vĩnh cửu trên Thiên-đàng, nơi không còn đau khổ, vất vả, thù hận… Có thế chúng ta mới thật sự được bình tâm để sống bình an trước mọi biến động, nghịch cảnh… có thể xảy đến với ta bất cứ lúc nào.

Sưu Tầm Và Tổng Hợp

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

MỘT SỐ ĐIỀU NÊN NHỚ TRONG CUỘC SỐNG



Một số điều nên nhớ trong cuộc sống

Đó là những điều giản dị nhưng cực kỳ hữu ích, cho những ai muốn làm giàu thêm hành trang cuộc sống.

1. Nổi giận là trạng thái cái lưỡi làm việc nhanh hơn cái đầu.
2. Bạn không thể thay đổi quá khứ, nhưng có thể phá hủy hiện tại bằng cách quá lo lắng cho tương lai.
3. Hãy yêu thương đi, rồi bạn chắc chắn sẽ được đáp lại !
4. Cuộc sống luôn ban tặng những điều tốt đẹp nhất cho những ai biết nhẫn nhịn.
5. Tất cả nụ cười đều có chung một ngôn ngữ.
6. Cái ôm là món quà lớn... ta có thể cho đi bất cứ lúc nào và dễ dàng được đáp lại.
7. Mọi người cần được yêu thương..., nhất là khi họ không xứng đáng với điều đó.
8. Thước đo của cải của một người là những gì anh ta đã cống hiến cho đời.
9. Tiếng cười là mặt trời của cuộc sống.
10. Ai ai cũng đẹp, có điều không phải ai cũng nhận ra nó.
11. Điều quan trọng cho bậc cha mẹ là con cái sống theo những gì họ dạy.
12. Cảm ơn cuộc sống về những gì bạn có, tin cuộc sống về những gì bạn cần.
13. Nếu bạn tiếc nuối ngày hôm qua và lo lắng ngày mai, bạn sẽ không có ngày hôm nay để cảm tạ.
14. Người bình thường nhìn hình thức, người thông thái nhìn nội tâm.
15. Sự lựa chọn của bạn ngày hôm nay sẽ có tác động đến ngày mai
16. Dành thời gian để cười, bởi đó chính là điệu nhạc của tâm hồn.
17. Nếu có ai nói xấu bạn, hãy sống làm sao để không ai tin điều đó !
18. Kiên nhẫn là khả năng bạn hãm phanh, khi bạn có cảm giác như đang tăng tốc.
19. Tình yêu thương sẽ vững chắc, sau khi trải qua những xung đột.
20. Điều tốt nhất cha mẹ có thể làm cho con cái là yêu thương nhau.
21. Những lời nói không tốt không làm gãy xương, nhưng có thể làm vỡ trái tim ta.
22. Để thoát khỏi gian nan, chỉ có cách đi xuyên qua nó.
23. Yêu thương là từ duy nhất có thể chia mà không bị giảm.
24. Hạnh phúc được tăng lên nhờ những người xung quanh, nhưng không phụ thuộc vào họ.
25. Với mỗi phút bạn nổi giận, bạn mất đi 60 giây hạnh phúc mà không thể nào lấy lại được.
26. Làm bất cứ việc gì với hết khả năng, cho những ai bạn có thể, với những gì bạn có, và ở nơi nào bạn đang đứng.
27. Hãy đến nơi bạn thích, hãy trở thành người mà bạn muốn. Bởi lẽ, bạn chỉ có một cuộc đời và một cơ hội để thực hiện.
28. Đừng xem trọng bề ngoài vì nó có thể đánh lừa bạn. Đừng xem trọng sự giàu sang vì nó có thể mất dần. Hãy đến với người biết làm bạn cười, vì chỉ có nụ cười mới biến ngày buồn thành vui. Chúc bạn tìm được người như thế.
29. Có những lúc trong cuộc đời, bạn nhớ một người đến nỗi chỉ muốn kéo người ấy ra khỏi giấc mơ để ôm chặt lấy. Chúc bạn có được người ấy.
30. Hãy đến nơi bạn thích, hãy trở thành người mà bạn muốn. Bởi lẽ, bạn chỉ có một cuộc đời và một cơ hội để thực hiện tất cả những gì mong mỏi. Chúc bạn có lòng can đảm.
31. Chúc bạn có đủ hạnh phúc để được dịu dàng, đủ từng trải để được mạnh mẽ, đủ nỗi buồn để biết cảm thông, đủ hy vọng để biết hạnh phúc.
32. Khi cánh cửa hạnh phúc đóng lại, một cánh cửa khác sẽ mở ra. Thường bạn sẽ ngắm mãi cánh cửa đóng lại để rồi không thấy cánh cửa đang mở ra. Chúc bạn nhận ra cánh cửa của mình.
33. Người bạn tốt nhất là người có thể im lặng cùng bạn khi ngồi ngoài hiên, để rồi khi quay đi, bạn cảm thấy như vừa được trò chuyện thật thích thú. Chúc bạn có nhiều bạn bè.
34. Bạn sẽ chẳng biết mình đang hưởng gì nếu không mất nó. Bạn sẽ chẳng mong mỏi gì nếu không mất nó. Chúc bạn không biết để không chịu đau khổ như thế.
35. Luôn đặt mình vào vị trí của người khác. Nếu trong vị trí đó, bạn thấy đau, có lẽ người kia cũng sẽ cảm thấy như vậy.

36Một lời bất cẩn có thể gây bất hòa. 
Một lời độc ác có thể làm hỏng cả cuộc đời. 
Một lời đúng lúc có thể làm giảm căng thẳng. 
Một lời yêu thương có thể đem lại hạnh phúc.

 Chúc bạn biết cách điền vào chỗ trống của cuộc đời

CHÂU NGÂN LÊ  (sưu tầm)



Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

NỤ CƯỜI



Nụ cười tươi.

       Giá một nụ cười rẻ hơn giá tiền điện, thế nhưng nụ cười lại tỏa sáng nhiều hơn hàng trǎm bóng đèn điện. Không ai nghèo đến nỗi không thể mỉm một nụ cười, cũng không ai đủ giàu để sống mà không cần đến nụ cười của người khác. Một nụ cười – vốn liếng tuy nhỏ bé nhưng lại sinh hoa lợi nhiều, nó làm giàu cho kẻ đón nhận nó mà không hề làm kẻ trao tặng nó phải nghèo đi. Ngược lại, có khi người ta sẽ còn mãi mãi ghi nhớ. Không ai đủ giàu mà bỏ qua không nhận lấy một nụ cười. Nụ cười tạo được hạnh phúc trong gia đình. Nụ cười là dấu hiệu của nhân ái. Nụ cười làm cho kẻ nhọc nhằn tìm được sự thoải mái dễ chịu. Nụ cười đem lại sự can đảm cho người nản chí, hoang mang.

            Nếu có một lúc nào đó trong đời, bạn gặp một ai đó không cho bạn được một nụ cười như bạn đáng được nhận, thì bạn hãy quảng đại mà nở một nụ cười với người đó. Bởi vì không ai cần đến nụ cười cho bằng người không bao giờ biết cười.


N cười ca các bà

            Có một câu chuyện kể rằng: Saint Exupery từng là phi công tham gia chống phát xít trong Đệ nhị Thế chiến. Chính từ những nǎm tháng này ông đã viết ra tác phẩm “Nụ cười”. Không biết đây là một tự truyện hay một truyện hư cấu, nhưng tôi tin rằng nó có thật. Trong truyện, Saint Exupery là một tù binh bị đối xử khắc nghiệt và ông biết nay mai có thể bị xử bắn như nhiều người khác. Ông viết:
       “Tôi trở nên quẫn trí. Bàn tay tôi giật giật, cố gắng rút trong túi áo một điếu thuốc. Nhưng tôi lại không có diêm. Qua hàng chấn song nhà giam, tôi trông thấy một người cai tù. Tôi gọi: “Xin lỗi, anh có lửa không?”
         Anh ta nhún vai rồi tiến lại gần. Khi rút que diêm, tình cờ mắt anh nhìn vào mắt tôi. Tôi mỉm cười mà chẳng hiểu tại vì sao lại làm thế. Có lẽ vì khi muốn làm thân với ai đó, người ta dễ dàng nở một nụ cười. Lúc này dường như có một đốm lửa bùng cháy nhanh qua kẽ hở giữa hai tâm hồn chúng tôi, giữa hai trái tim con người. Tôi biết anh ta không muốn, nhưng do tôi đã mỉm cười nên anh ta phải mỉm cười đáp lại. Anh ta bật que diêm, đến gần tôi hơn, nhìn thẳng vào mắt tôi và miệng vẫn cười. Giờ đây trước mặt tôi không còn là viên cai ngục phát xít mà chỉ là một con người. Anh ta hỏi tôi: “Anh có con chứ?”. Tôi đáp: “Có” và lôi từ trong ví ra tấm hình nhỏ của gia đình mình. Anh ta cũng vội rút trong túi áo ra hình những đứa con và bắt đầu kể lể về những kỳ vọng của anh đối với chúng. Đôi mắt tôi nhoà lệ. Tôi biết mình sắp chết và sẽ chẳng bao giờ gặp lại được người thân. Anh ta cũng bật khóc. Đột nhiên, không nói một lời, anh ta mở khoá và kéo tôi ra khỏi buồng giam. Anh lặng lẽ đưa tôi ra khỏi khu vực thị trấn chiếm đóng, thả tôi tự do rồi quay trở về.

Thế đó, cuộc sống của tôi đã được cứu rỗi chỉ nhờ một nụ cười”.


Tiểu sư phụ cười.

           Từ khi đọc được câu chuyện này tôi nghiệm ra được nhiều điều. Tôi biết rằng bên dưới mọi thứ vỏ bọc chúng ta dùng để thủ thế, để bảo vệ phẩm giá và địa vị, vẫn còn đó một điều thật quý giá mà tôi gọi là tâm hồn. Tôi tin rằng: nếu tâm hồn bạn và tâm hồn tôi nhận ra nhau thì chúng ta chẳng còn gì phải sợ hãi hay cǎm thù oán ghét nhau. Nếu bạn từng có một khoảnh khắc gắn bó với đồng loại qua sức mạnh của nụ cười, thì tôi tin rằng bạn cũng đồng ý với tôi, đó là một phép lạ nho nhỏ, một món quà tuyệt vời mà chúng ta có thể dành cho nhau. Một nữ tu ở Calcutta đã cảm nhận được điều này trong cuộc sống, và bà đưa ra lời khuyên chân thành:

“Hãy mm cười vi nhau, mm cười vi v, vi chng, vi con cái bn và vi mi người dù đó là ai đi na, vì điu này s giúp bn ln lên trong tình yêu ca nhau…”


Diệu Liên sưu tầm.

MÓN QUÀ CỦA TÌNH YÊU



Chuyện cảm động và có thật

Chưa có ai kể cả thi sĩ có thể đo lường được sức chứa của trái tim
Zelda Fitzgerald

Cho tôi xem cháu một chút được không? Người mẹ trẻ hạnh phúc hỏi.
Khi cái gói nhỏ nằm gọn trong tay mình, người mẹ vén tấm vải để xem khuôn mặt bé xíu kia ra sao, bỗng cô há hốc mồm vì kinh ngạc. Người bác sĩ vội quay đi và nhìn ra cửa sổ.
Đứa bé con cô không có đôi tai.
Thời gian trôi qua, đứa bé ấy lớn lên và vẫn có khả năng nghe bình thường, chỉ có điều cơ thể cậu có một thiếu sót…
 


Rồi một hôm, đứa bé chạy vội về nhà, gục đầu vào lòng mẹ mình khóc nức nở. Trông cậu thảm thương làm sao! Và cậu tự thốt ra bi kịch của mình: 
-          Con là … một con quái vật!

Người mẹ hiểu rằng cuộc đời con trai mình bắt đầu phải trải qua nhiều lần cay đắng như thế.
Cậu bé lớn lên càng lúc càng tuấn tú và khỏe mạnh, như thể tạo hóa muốn bù lại nỗi bất hạnh của cậu. Bao bạn bè quý mến cậu. Đáng lẽ cậu được chọn làm lớp trưởng nếu như cậu không bị khiếm khuyết hình thể duy nhất ấy. Cậu lại rất giỏi văn chương và âm nhạc, đáng lẽ cậu có thể tiến xa, nếu như…

  
Nhưng con có thể hòa nhập với người khác được mà. Người mẹ trách nhẹ khi thấy cậu buồn tủi, nhưng tim bà cũng đau xót chẳng khác gì cậu. Bà thương con biết bao!
- Chẳng lẽ không còn cách nào khác để giúp con tôi sao? Người cha hỏi vị bác sĩ của gia đình.
- Tôi tin rằng tôi có thể phẩu thuật ghép vành tai nếu như có người hiến tặng. Ông ta đáp.
Thế rồi gia đình cậu bắt đầu tìm kiếm người có thể hy sinh cho cậu đôi tai. Riêng chàng trai trong lòng khấp khởi hy vọng.
Đã hai năm trôi qua mà không có kết quả gì. Cho đến một hôm, cha cậu bảo:
- Con chuẩn bị đến bệnh viện làm phẩu thuật. Bố mẹ đã tìm được người hiến tai cho con rồi. Nhưng người bắt phải giữ bí mật.



Cuộc phẩu thuật thành công tốt đẹp, và cuộc đời cậu thay đổi từ đó. Cậu như có thêm sức mạnh và lòng tự tin. Tài năng của cậu đạt đến đỉnh cao, vinh quang của cậu nối tiếp từ trường phổ thông đến khi cậu học đại học. Sau đó, cậu lập gia đình và bước vào lĩnh vực ngoại giao.
Con cần phải biết chứ! Cậu thúc ép cha, con cần biết ai đã cho con quá nhiều như thế? Nếu không, con sẽ không thể đền đáp đủ công ơn cho người ta.
Cha không nghĩ rằng con có thể đền đáp được cho người đó đâu… nhưng con vẫn chưa được biết con ạ.
Nhiều năm nữa lại trôi qua, bí mật sâu kín đó vẫn chưa được hé mở.
Rồi cái ngày người con trai mong mỏi cũng đến. Đó là một trong những ngày tối tăm nhất trong cuộc đời cậu. Đứng trước quan tài mẹ, cậu thấy ông nhẹ nhàng đưa tay ra từ từ nâng mái tóc nâu đỏ dày của bà lên: bà đã không còn đôi tai.
Mẹ con nói rằng bà rất vui nếu để tóc dài – người cha thì thầm – mẹ con để như vầy cũng đâu có xấu đi chút nào, đúng không con?
Người cha đã nói đúng. Vẻ đẹp thật sự của con người không nằm ở bề ngoài mà là ngay trong chính trái tim của họ. Điều thật sự đáng giá không phải ở những gì ta có thể nhìn thấy mà là ở những điều vô hình. Tình yêu thật sự không nằm trong những gì được thể hiện và được biết đến mà chính ở những điều làm được mà không ai biết đến.

****
Đáng lẽ câu chuyện cảm động sẽ được gởi đến các bạn vào ngày " Mother day" và tựa của câu chuyện nên đổi thành
"Món quà của người Mẹ" 

NGÂN LÊ