Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

SƠ CẤP CỨU KHI ĐI CẮM TRẠI , DÃ NGOẠI (9)





9- ĐUỐI NƯỚC 


          Tỷ suất tử vong do đuối nước ở nước ta là 8/100.000 người/năm  . Trẻ em là nhóm có nguy cơ cao tử vong do đuối nước .
            Theo kết quả điều tra của Tổ chức Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tại Việt Nam, mỗi năm nước ta có khoảng trên 12.700 trẻ em chết đuối và  là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong  ở trẻ em . Tính trung bình, mỗi ngày có khoảng 35 trẻ em chết đuối. Nếu so sánh với các quốc gia khác, tỉ lệ trẻ em Việt Nam bị chết đuối cao gấp 10 lần...
           Đuối nước là tình trạng nước tràn vào đường hô hấp làm cho các cơ quan bị thiếu ôxy và các chức năng sống của cơ thể ngừng hoạt động. Hay nói cách khác: Chết đuối là tình trạng thiếu oxy do cơ thể bị chìm trong nước.
          Đối với tai nạn này, việc sơ cứu ngay tại chỗ nhờ những người xung quanh là rất quan trọng, việc đưa tới bệnh viện chỉ nhằm cấp cứu những biến chứng. Vì khi ngập nước, chỉ trong vòng mấy giây là bắt đầu thiếu ôxy và sau 5 phút ngập nước, tim sẽ ngừng đập, não sẽ không hồi phục được.
           Do đó khi gặp trường hợp đuối nước , việc cấp cứu phải tiến hành nhanh, kiên trì, ngay tại chỗ để giải phóng đường hô hấp .





1)    Cứu người đuối nước ở dưới nước như thế nào ?
            Tuy thế, việc cứu người chết đuối rất nguy hiểm , vì nếu không biết cách ,sẽ kéo nhau chết chìm hết lúc cứu nhau – (nhất là ở các em nhỏ )- . Do trong cơn hoảng loạn, nạn nhân đuối nước sẽ cố bám, bấu vào cơ thể người cứu hộ và cố gắng trèo lên bằng mọi giá, kể cả việc dìm người cứu hộ xuống. Vì thế, nên nhớ rằng, nếu bạn chưa được hướng dẫn, đào tạo chuyên nghiệp để cứu người chết đuối, bạn đừng bao giờ cố gắng tiếp xúc trực tiếp nạn nhân khi họ còn tỉnh táo.
                Khi thấy người đuối nước , khẩn cấp :

             1. Quăng cho nạn nhân một vật nổi nào đó, như phao, bình rỗng, thanh gỗ… và khuyến khích họ bám lấy.
 Tuy nhiên, bạn vẫn phải đưa nạn nhân ra khỏi nước càng nhanh càng tốt. Cách phù hợp nhất là:
              2. Cố gắng tiếp cận nạn nhân gián tiếp, qua một vật trung gian nào đó dạng cứng, như mái chèo, cây gỗ, sào tre, cây chổi… Tìm ngay chung quanh bất kỳ vật gì tương tự như thế và đưa cho nạn nhân.
              3. Nếu không tìm thấy vật gì tương tự như trên, cố gắng tìm một sợi dây, tốt nhất là dây thừng, quăng cho nạn nhân và khuyến khích họ bắt lấy. Có thể cột một vật gì đó vào đầu dây để bạn dễ quăng chính xác hơn. Nếu có một cái phao hay thùng rỗng thì tuyệt vời! Nếu không có gì chung quanh, có thể huy động mọi người cởi quần, áo cột lại để tạo thành một sợi dây dài, quăng cho nạn nhân.
              4. Nếu nạn nhân đã quá xa khỏi tầm quăng của sợi dây, có thể để một người bơi ra cứu nạn nhân, nhưng phải buộc một sợi dây thừng quanh eo người cứu hộ, chừa một đoạn dài và có người nào đó trên bờ giữ đầu dây còn lại hoặc cột dây vào một cọc neo, cây cối nào đó để giữ dây. Khi bơi ra gần nạn nhân, quăng đầu dây đã chừa sẵn cho họ.
              Tuyệt đối không trực tiếp ôm nạn nhân hay để nạn nhân níu vào người khi họ còn tỉnh táo. Sau đó bơi vào hoặc nhờ người trên bờ kéo dây lôi tất cả lên bờ.

             5. Nếu nạn nhân đã bất tỉnh, cũng phải tự bảo hộ mình theo cách buộc dây như trên và bơi ra, nắm tóc kéo đầu nạn nhân nhô lên khỏi mặt nước, tát  2-3  cái thật mạnh vào má nạn nhân để gây phản xạ hồi tỉnh và thở lại. Nhanh chóng quàng tay qua nách, hoặc kêu thêm người hỗ trợ đưa nạn nhân vào bờ.
           6. Khi người bị nạn đã ra khỏi nước an toàn, hãy thực hiện các biện pháp sơ cứu cơ bản.

          2) Sơ cứu người bị đuối nước  ở trên cạn
Bước 1: Lay gọi nạn nhân

-        Nếu nạn nhân còn thở, tim còn đập thì đặt nạn nhân nằm nghiêng một bên , đầu thấp để cho nước thoát ra; lấy khăn mặt bọc ngón tay, móc đờm dãi trong miệng; thay quần áo, ủ ấm, xoa nóng người; sau đó, cho uống nước trà đường nóng.
-        Nếu nạn nhân không đáp ứng với việc lay gọi thì sau khi móc hết dị  vật , đờm nhớt, đất cát trong miệng nạn nhân cần thực hiện ngay bước 2 đồng thời kêu gọi sự giúp đỡ từ những người xung quanh.



 
Bước 2: Thông đường thở và hô hấp nhân tạo


           Đặt nạn nhân
nằm ng ửa trên mặt phẳng cứng , và nâng cằm nạn nhân.
           Áp mặt sát vào mũi nạn nhân để cảm nhận hơi thở từ mũi và quan sát sự di động của lồng ngực. Nếu nạn nhân không thở và lồng ngực không nhấp nhô thì cần hô hấp nhân tạo ngay.



Kiểm tra hơi thở

          Dùng hai ngón tay cái và trỏ bịt mũi nạn nhân rồi thổi hơi trực tiếp vào miệng nạn nhân.Thổi ngạt 2 lần có hiệu quả sao cho khi thổi vào thì lồng ngực nạn nhân nhô lên.
           Nhớ , trước khi thổi ngạt phải thay quần áo ướt ra vì nó làm trở ngại tuần hoàn; đồng thời lau khô người nạn nhân, ủ ấm, xoa bóp thân thể, xoa bóp tay chân theo hướng về tim.


Tiến hành hô hấp




Bước 3: Bắt mạch đánh giá tình trạng ngưng tim

            Đối với trẻ  trẻ nhỏ thì bắt mạch cánh tay, mạch bẹn. Đối với trẻ lớn thì bắt mạch cổ, mạch bẹn.
            Nếu có mạch trung tâm thì tiếp tục thổi ngạt.

            Không có mạch trung tâm trong vòng 10 giây thì có ngưng tim. Tiến hành bước 4.

Bước 4: Ấn tim ngoài lồng ngực




Ấn tim ngoài lồng ngực

Vị trí và kỹ thuật ấn như sau:

           * Đối với trẻ dưới 1 tuổi:
Vị trí: Xương ức, dưới đường nối 2 vú một khoát ngón tay.
Kỹ thuật: Ấn bằng 2 ngón cái hoặc 2 ngón tay và ấn sâu 1 - 2 cm
            * Đối với trẻ từ 1-8 tuổi:
Vị trí: trên mấu xương ức 1 khoát ngón tay
Kỹ thuật: Dùng 1 bàn tay ấn sâu 2 - 3 cm.
            * Đối với trẻ lớn hơn 8 tuổi:
Vị trí: trên mấu xương ức 2 khoát ngón tay
Kỹ thuật: Dùng 2 bàn tay ấn sâu 2 - 3 cm.

Cách phối hợp ấn tim và thổi ngạt như sau:

Tỉ lệ ấn tim/thổi ngạt là: 3/1 đối với trẻ sơ sinh và 15/2 đối với trẻ lớn hơn 1  tuổi.
Nếu có 2 người: người ấn tim đếm lớn để người thổi ngạt nghe phối hợp .
Tiến hành thổi ngạt, ấn tim và đánh giá lại sau 2 phút bằng cách quan sát di động lồng ngực và bắt mạch trung tâm:
Nếu mạch trung tâm rõ, đều nghĩa là tim đập lại thì ngưng ấn tim, tiếp tục thổi ngạt.
Nếu có di động lồng ngực nghĩa tự thở thì ngưng thổi ngạt.
Nếu bệnh nhân vẫn còn ngưng thở ngưng tim phải tiếp tục ấn tim thổi ngạt. 



          Nếu có hai người cấp cứu thì một người thổi ngạt, một người ép tim ngoài lồng ngực, làm kiên trì cho đến khi tim đập lại và thở trở lại.
          Khi tỉnh lại, nạn nhân sẽ nôn ra nước nên phải để nạn nhân ở tư thế an toàn, kê gối dưới hai vai, nới rộng quần áo, phòng cho nạn nhân không bị ngạt trở lại vì sặc chất nôn.  
          Chỉ bỏ cuộc khi đã hô hấp nhân tạo và ép tim được 2 tiếng mà không thấy nạn nhân phục hồi.
         Nếu sơ cứu có kết quả, nạn nhân thở lại, cử động giãy giụa, hay nạn nhân vẫn còn mê nhưng đã có mạch và nhịp thở thì gọi xe cấp cứu hay dùng mọi phương tiện sẵn có chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế có trang bị hồi sức cấp cứu.
          Quá trình vận chuyển vẫn phải tiếp tục cấp cứu và đắp giữ ấm cho nạn nhân.

3)    Những việc lưu ý  trong quá trình sơ cứu đuối nước?

-          Khi phát hiện người đuối nước , phải tìm mọi cách để đưa họ ra khỏi nước qua một vật trung gian, không tiếp xúc họ trực tiếp kẻo chính mình sẽ trở thành nạn nhân. Nếu đông người, có thể phân công 1 người chạy đi tìm người hỗ trợ, những người khác còn lại tìm cách cứu nạn nhân như đã nói ở trên.
-          Không được chậm trể trong việc cấp cứu người bị đuối nước như đợi cho đầy đủ các phương tiện cấp cứu mới thực hiện sơ cứu .
-          Đừng cố tìm cách lấy nước trong phổi nạn nhân ra ngoài bằng cách xốc nước (vác nạn nhân chạy vòng vòng cho nước chảy ra) vì như thế sẽ bỏ lỡ thời gian vàng cho việc làm hồi sức cấp cứu tim phổi mà chỉ cần chậm trễ 4 phút là đã có nguy cơ chết não. Trong quá trình hồi sức cấp cứu tim phổi, nước trong phổi sẽ tự động thoát ra ngoài còn nếu là nước ngọt thì nước sẽ tự hấp thụ vào hệ tuần hoàn do hiện tượng thẩm thấu.
-          Khi làm xoa bóp tim ngoài lồng ngực, cần chú ý không quá mạnh bạo vì có thể làm gãy xương sườn nạn nhân, nhất là trẻ nhỏ.


       4) Để phòng, chống tai nạn đuối nước cần thực hiện những gì?
Đề phòng tai nạn đuối nước  cần quan tâm đến những  việc sau đây:
1. Đối với trẻ lớn và người lớn:
- Không nên nhảy xuống vùng nước mà không biết nơi đó nông hay sâu, có lối thoát khi gặp nguy hiểm hay không.
- Khi đi bơi nên đi chung với những người bơi giỏi và nên mang theo phao khi đi bơi và đi tàu thuyền.
- Không ăn no, không uống rượu trước khi xuống nước.
- Chỉ đi bơi ở các hồ bơi bảo đảm an toàn và có nhân viên cứu hộ giám sát.
2. Đối với trẻ nhỏ:
- Trẻ em khi bơi phải được người lớn giám sát thường xuyên và không được rời mắt để làm công việc khác như đọc sách, tán chuyện gẫu, chơi bài…
- Ở nhà có trẻ nhỏ tốt nhất không nên để những lu nước, thùng nước, nếu bắt buộc phải có (như vùng phải tích trữ nước ngọt để dùng) nên đậy thật chặt để trẻ em không mở nắp được.
- Nhà có hồ bơi nên rào kín xung quanh và cửa có khóa để trẻ em không mở cửa được, có hệ thống báo động khi trẻ em vào.
- Nên cho trẻ tập bơi sớm (trên 4 tuổi).

           Đuối nước là một tai nạn thường gặp nhất do có nhiều sông rạch và bờ biển dài như ở nước ta. Tuy nhiên, tai nạn này có thể phòng chống dễ dàng nếu chúng ta hiểu biết về nó và biết cách xử trí khi gặp người bị chết đuối.


                       (tổng hợp từ TT TT giáo dục sức khỏe , tin sức khỏe  .....trên internet)