Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

XIN THƯƠNG XÓT CON LÀ KẺ TỘI LỖI


Chúa Nhật 30 thường niên  - Năm C


QUÌ GỐI XUỐNG 

Suy niệm của Lm. Vũ Minh Nghiễm,  
CSsR
01/02/2005
Lc 18: 9-14

           Cũng như Chúa nhật trước, Chúa nhật hôm nay Đức Kitô dạy chúng ta phải biết cầu nguyện như thế nào. Chúa Nhật trước, Ngài dạy chúng ta phải noi gương bà góa nghèo kia mà cầu nguyện cho kiên trì. Hôm nay Ngài dạy chúng ta phải noi gương người thu thuế mà cầu nguyện cho khiêm nhượng.

           Chúng ta biết rằng người Do thái cầu nguyện một ngày 3 lần : 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, và 3 giờ chiều. Lời cầu nguyện được coi là hiệu nghiệm hơn hết là lời cầu nguyện dâng trong Đền thờ.

           Hôm nay Chúa dạy dưới hình thức dụ ngôn. Có hai người Do thái cùng lên Đền thờ cầu nguyện. Một người là biệt phái (mà chúng ta quen gọi là Pha-ri-siêu. Người kia là người thu thuế (chúng ta thường gọi là Pu-bli-ca-nô). Nhóm Pha-ri-siêu được gọi là biệt phái, vì họ tự đứng biệt lập ra thành một phái riêng. Họ là hạng người được coi là đáng kính, đạo đức. Trong dân chúng, họ là lớp người ưu tú. Họ giữ luật Chúa rất tỉ mỉ. Nhưng do chỗ giữ luật tỉ mỉ, và được kẻ khác coi là thánh thiện, mà có những người trong nhóm, họ sinh ra tự cao tự đại đối với những người chung quanh.

          Trong dụ ngôn hôm nay, một người biệt phái như vậy lên đền thờ cầu nguyện cùng một trật với một người thu thuế. Hạng người sau nầy bị dân chúng coi như ngược lại với người biệt phái. Người biệt phái được coi là thánh thiện, thì người thu thuế bị coi là tội lỗi.

          Hồi đó, dân Do thái bị người Rôma đô hộ. Chính phủ độ hộ không tự tổ chức thu thuế lấy, như chúng ta thấy ở Hoa kỳ chẳng hạn. Nhưng họ cho đấu thầu. Đã thầu thì ai thầu cao nhứt, sẽ được độc quyền thu thuế. Dĩ nhiên hạng người thu thuế nầy bị dân chúng gớm ghét và coi là hạng người tội lỗi. Tội lỗi phép công bằng. Tội bóc lột, làm giàu trên xương máu đồng bào. Tội làm tay sai cho chính quyền ngoại bang Rôma.

          Vậy hôm nay có hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Một là biệt phái, một là thu thuế.

          Người biệt phái đứng thẳng người lên cầu nguyện rằng: 

“Lạy Chúa con cám tạ Chúa, vì con không giống như những người khác, gian tham, bất công, ngoại tình. Không giống như tên thu thuế đứng kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng cúng vào đền thờ một phần mười tất cả các hoa lợi của con.”

           Luật Do thái chỉ buộc ăn chay một năm một lần trong ngày lễ Đền tội. Nhưng có người đạo đức ăn chay trường, mỗi tuần hai lần, trong ngày thứ Hai và ngày thứ Năm. Chúng ta biết rằng hai ngày nầy là hai ngày chợ tại Yê-ru-sa-lem. Nhiều nơi, như tại các vùng quê bên Việt Nam ta, không có những nơi bán thức phẩm thường xuyên, không có các siêu thị sẵn sàng mỗi ngày. Dân chúng chỉ nhóm chợ một vài ngày trong tuần. Một vài ngày trong tuần, họ mang rau cỏ, trái trăng, thịt cá, lúa gạo... ra chợ bán. Và ngày đó mới ngày chợ.

          Ở Yêrusalem, hai ngày mà người Do thái đạo đức quen ăn chay cũng là hai ngày chợ. Dân chúng lên nhóm chợ chung quanh đền thờ rất đông. Những người ăn chay lên đó, đi qua giữa đám đông, mặt mày xanh xao tiều tụy, áo quần lếch thếch. Ai cũng phải chú ý đến họ. Và trong số nầy, có ông biệt phái của dụ ngôn hôm nay.

           Người Do thái phải dâng vào đền thờ một phần mười hoa lợi ruộng đất của mình. (Tl 14:22). Ông biệt phái hôm nay thì dâng vào đền thờ một phần mười về tất cả mọi thứ hoa lợi, dầu những thứ hoa lợi Luật không buộc đóng thuế.

           Ông quả là tốt lành, đại lượng. Ông chỉ có cái tội nầy là tự phụ, khoe khoang và khinh người. Ông lên đền thờ nói là cầu nguyện, nhưng không phải cầu nguyện cùng Chúa, mà cầu nguyện với chính mình. Nói cách khác, không phải để chúc tụng ngợi khen Chúa, mà để chúc tung ngợi khen mình.

“Lạy Chúa, con không tham lam, bất công, ngoại tình. Con không như tên tội lỗi thu thuế kia đâu. Con ăn chay mỗi tuần những hai lần. Con dâng vào đền thờ một phần mười tất cả mọi thứ hoa lợi của con.”

          Rõ ràng ông không van xin ơn gì cùng Chúa cả. Ông chỉ chúc tụng mình. Ông lên đền thờ là để dùng nhà Chúa làm diễn đàn, tự tuyên dương công trạng. Ông tự cho mình là người thánh thiện, tự trưng bày công nghiệp và nhân đức của mình, với mục đích là thóa mạ, phỉ báng, lên án người cùng lên đền thờ cầu nguyện với mình.

          Ông biệt phái hôm nay giống hệt thầy Rabbi Simeon ben Jocai. Có lần thầy đã tuyên bố: “Nếu trên thế giới có hai người công chính, thì đó là tôi và con tôi. Nếu chỉ có một người công chính, thì người đó chính là tôi.”

           Có người biệt phái nào dám khoe khoang trước bàn thờ Chúa như ông biệt phái hôm nay chăng? Dẫu sao Đức Yê-su đã muốn làm nỗi bật giáo huấn của Ngài để chúng ta khó quên dễ nhớ. Lời cầu nguyện chỉ dâng lên cho Chúa, không dâng lên cho ai khác. Lại càng không được dâng lên cho chính mình, như kiểu ông biệt phái hôm nay. Đó là tôn thờ mình. Kẻ tôn thờ mình thì phạm tội kiêu căng, trùm của Bảy mối tội. Đã phạm tội kiêu căng thì lời cầu nguyện ấy không thể đẹp lòng Chúa được.

            Còn người thu thuế, nhân vật thứ hai trong bài dụ ngôn hôm nay, thì sao? Anh đứng cuối cửa đền thờ, cúi mặt xuống, đấm ngực, thưa lên cùng Chúa:

“Lạy Chúa, xin thương con là đứa tội lỗi.”

          Anh tự biết mình là người tội lỗi, khốn nạn. Nhưng anh cũng biết Thiên Chúa là Đấng nhân lành, đầy tình thương xót. Và anh kêu cầu lòng thương xót Ngài thứ tha cho anh. Anh không dùng ngôn từ quyền thế của người cậy có công lênh, nhưng dùng lời lẽ khiêm nhu của người muốn cải thiện.

        Và Đức Yêsu đã kết luận rằng :

“Khi về nhà, người thu thuế trở nên công chính. Còn người biệt phái thì trước sao sau vậy?”

        Hơn nữa, ông mắc thêm tội. Tội tôn thờ chính mình. Tội kiêu căng, khinh miệt kẻ khác ngay trước mặt Thiên Chúa.

        Bài dụ ngôn hôm nay dạy chúng ta những điều sau đây về sự cầu nguyện.

        Trước hết, 

         *  Khi cầu nguyện, đối tượng tôi phải so sánh là chính Thiên Chúa, chứ không phải ai khác, hoặc chính mình tôi. Nếu thay vì nhìn vào chính mình, tôi nhìn vào Thiên Chúa là Đấng tốt lành cao cả vô cùng, tôi mới thấy mình thấp kém, hèn hạ, tội lỗi như thế nào.

        Một đấng thánh vĩ đại như Thánh Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp kém nhất (1 Cor 15:9), vì “yếu đuối” (2 Cor 12:9) đã bắt đạo và ngạo ngược(1Tm 1:13; Gl 1:13). Thánh Vincente Phaolô, một ngôi sao chói lọi trong công việc bái ái từ thiện, mà tự gọi mình là người “thấp hèn nhứt trên thế gian.”

        * Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phó thác  vào Chúa Quan phòng, đại lượng vô song, khôn ngoan vô cùng.

        Thứ đến, 

       * Khi cầu nguyện, tôi không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Tôi phải luôn luôn nhớ rằng tôi thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Đức Chúa Trời đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho.

         Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống, đi bằng đầu gối, mới vào được.

        Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói: 

- Tôi nghe đồn bức tượng nầy nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chẳng thấy gì là đẹp cả.

        Một người quì sau lưng ông, nói:

- Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp.

        Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.

        Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, tôi cũng phải quì gối xuống mà van xin.
                                                                                         (Nguồn : vietcatholic.net)