(Làm sao giữ ấm cho con trong những ngày rét buốt đây ?)
CẦN
LO TRƯỚC.
Muốn chỉ huy, muốn điều khiển, muốn giáo huấn ta cần phải:
“Thấy trước và lo trước”. Trước khi cho trẻ vào một căn phòng nào ta cần phải đến
đó xem xét trước, có đặt bàn ghế và đủ chỗ cho các em không?
Muốn đưa các trẻ đi chơi dạo mát nơi nào, ta cần đến đó trước xem xét kỹ
lưỡng chỗ chơi có gì trở ngại, a cần phải đề phòng, gìn giữa và bảo vệ chúng lúc
đi cũng như lúc về, đặt chương trình rõ ràng. Dọn sẵn những trò chơi, những bài
học, những lời lẻ khuyên bảo và thăm viếng, những bề trên ở nơi đó.
Muốn tổ chức một cuộc chơi, một buổi văn nghệ, ta phải sắp xếp chương trình
trước, phải biết trước thứ tự những trò chơi, những vở kịch, những bài hát. Nếu
ta không hoạch định trước chương trình, rất có thể cuộc chơi hay buổi văn nghệ
sẽ ra nhạt nhẻo vì quá ngắn hay quá dài hoặc cơ cấu không mạch lạc với nhau.
Đừng bao giờ đợi “nước đến chân mới nhảy”, “giờ phút chót mới lo dọn bài
cho một lớp học, chương trình một buổi học tập, họp hội hay bất cứ làm một việc
gì bao giờ ta cũng phải lo chuẩn bị sẵn sàng trước.
TINH
THẦN KỶ LUẬT.
Đối với trẻ ta là cấp trên, nhưng đối với nhiều người khác, ta là cấp dưới.
Ta muốn cho trẻ vâng phục ta thế nào, ta cũng phải vâng phục cấp trên ta thế ấy.
Một nhà giáo dục, một người chỉ huy xứng đáng bao giờ cũng ra sức tìm hiểu
ý muốn của cấp trên mình. Ta thông cảm cấp trên ta giúp cấp trên thực hiện các ý
muốn đó, chớ không khi nào tìm cách đả phá, phê bình hay chỉ trích.
Ta biết rằng phê bình cấp trên là làm giảm giá trị của luân thường và làm
suy yếu uy quyền của cấp trên. Tai hại nhất là khi ta cải lại lệnh cấp trên trước
mắt các trẻ, làm như thế là ta vô tình phá hoại ảnh hưởng và quyền hành của ta
đối với chúng. Chúng thấy a không vâng lời cấp trên chúng cũng sẽ bắt chước ta
mà chống lại cấp trên. Như thế là phá hoại công trình giáo dục một cách nhanh
chóng.
Cấp trên thay mặt cho Chúa. Các Ngài đã nhận lãnh quyền hành với Thiên
Chúa để giúp đỡ ta dìu dắt ta, chỉ dẫn ta. Nếu các Ngài không làm tròn sứ mệnh,
các Ngài phải chịu trách nhiệm và phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Phần chúng
ta, bổn phận ta không phải là đoán xét, dòm ngó, soi mói cấp trên để rồi phê bình
chỉ trích, nhạo báng chê cười mà bổn phận ta chính là vâng phục cấp trên.
Hết các tầng lớp trong xã hội, từ gia đình đến chỗ làm việc, đâu đâu cũng
có tôn ti đẳng cấp, đâu đâu cũng có kỷ luật. Kỷ luật là sức mạnh. Kỷ luật là thành
lũy kiên cố. Kỷ luật là con đường đưa đến thành công.
QUYỀN
HÀNH.
Quyền hành là tất cả những tài năng mà nhờ đó nhà giáo dục có thể làm
cho trẻ mến thích và ước muốn những điều có ích lợi cho trẻ. Chỉ huy tức là phụng
sự.
Ta không nên lẫn lộn quyền hành với độc tài. Độc tài là bất cứ lúc nào cũng
can thiệp, cũng xen vào công việc của trẻ, làm cho chúng cảm thấy khó chịu và
không được tự nhiên hoạt động. Do đó chúng sẽ chán ghét nhà giáo dục của chúng.
Ta nhận lãnh trọng trách giáo dục một đoàn trẻ là lúc ta nắm lấy quyền hành
trong tay. Nhưng nếu ta không có đủ tài năng để điều khiển ta sẽ gây nguy hại
cho chúng ta cũng như cho trẻ, và sẽ làm cớ cho trẻ khinh dể ta và coi thường
quyền bính kỷ luật. Do đó chúng sẽ cưỡng chống lại ta và sống vô kỷ luật.
Nếu trẻ không vâng lời, đó là lỗi tại ta. Tại ta không biết sử dụng quyền
hành của ta.
Nhà giáo dục không bao giờ đi ăn mày sự vâng lời của chúng. Nhà giáo dục
phải chỉ huy, phải điều khiển với bất cứ giá nào, nhà giáo dục luôn luôn củng cố
địa vị của mình, uy thế của mình.
Trẻ cần được dạy bảo, chỉ dẫn để chúng có thể chống trả những khuynh hướng
xấu, tập rèn những đức tính tốt và phát triển những khả năng còn non nớt trong
người chúng. Đó là cả một vấn đề giáo dục cần phải có uy quyền.
KÍNH
NỂ TRẺ.
Trẻ cũng là người như ta, không bao giờ ta quên chân lý căn bản đó. Dù ở
dưới quyền ta, chúng có nhân vị, nhân phẩm như ta. Chúng cũng có những ước muốn
tâm tình và trí óc như ta.
Điều can hệ là trong khi điều khiển dạy dỗ, dạy bảo trẻ, ta cần luôn luôn
tôn trọng địa vị làm người của chúng. Ta đối xử với chúng cách xứng hợp với nhân
phẩm của chúng.
Trẻ là “người”, chúng chỉ lệ thuộc Thiên Chúa. Chúng không lệ thuộc một
ai khác. Không một ai được quyền coi chúng như một đồ vật. Quan niệm coi thường
con người và nhất là con trẻ đã bị lịch sử phá đổ từ lâu. Thời đại này là thời đại
nhân vị. Thời đại mà con người phải được cư xử đúng với ý nghĩa và địa vị của nó.
Giáo dục có sứ mệnh giải phóng con người, giúp con người biết dùng quyền
tự do của mình, biết tự mình hướng dẫn đời người. Chữ giáo dục không có nghĩa là
nô lệ hóa, là gò bó con người.
Còn kỷ luật, nó là một phương thế, chúng không phải là cứu cánh. Nó là
phương thế ta dùng để giáo hóa trẻ. Nó cần phải mềm dẻo, cần phải để cho trẻ được
tự do nhận lãnh các trách nhiệm của chúng.
Trẻ chỉ được tự do hoạt động, tự do đảm nhiệm khi chúng hiểu “Tại sao”
chúng phải làm, làm việc này mà không làm việc kia. Chúng phải làm cách này mà
không nên làm cách khác.
Một lời nói vụng về, một huấn lệnh thiếu tôn trọng, một cử chỉ cộc cằn
hay khinh dể sẽ gieo vào lòng trẻ sự chán nản và gớm ghét.
Càng ở địa vị cao chừng nào, ta càng phải tỏ ra quí trọng trẻ nhiều chừng
nấy.
CÔNG
BẰNG.
Trẻ rất “thính tai, tỏ mắt” đối với cách cư xử công bình hay bất công của
ta, một cử chỉ, một lời nói của ta cũng đủ cho chúng đánh giá ta về phương diện
này. Và nếu nhà giáo dục bị chúng cho là bất công rồi thì đừng mong chúng gần gũi,
ưa thích.
Nên nhớ rằng trẻ chỉ đoán xét bề ngoài, chỉ công bình không chưa đủ. Ta
cần phải tỏ “đức” đó ra ngoài bằng cử chỉ, hành động của ta.
Công bình là biết khen thưởng cũng như quở phạt cách cẩn thận và thích ứng
với công trạng hay lầm lỗi của trẻ.
Công bình là chính trực trong mọi trường hợp. Không thiên vị, không để mình
bị cảm tình lôi cuốn.
Công bình là nhận xét trẻ theo giá trị và khả năng của chúng, chứ không
phải heo diện mạo bên ngoài.
Công bình là không vì trẻ nào phạm lỗi điều gì một hai lần, rồi “in trí”
xấu cho nó và gán cho nó bao nhiêu việc không hay khác.
Không bao giờ nên dối gạt trẻ, chẳng hạn hứa với trẻ điều gì mà ta không
có ý muốn giữ lời hoặc hăm dọa sẽ phạt chúng những hình phạt mà ta không thể thực
hiện được.
Ngoài ra ta còn tránh việc “yêu riêng” một trẻ nào mà bỏ bê những đứa khác,
vì ta có thể làm hại cho hội đoàn. Chính đứa được ta yêu riêng sẽ “lờn mặt” với
ta. Còn những đứa kia thì sinh lòng ghen ghét và không còn kính phục ta.
Ta chỉ nên yêu thích riêng trong một trường hợp đặc biệt này là đối với
những kẻ nghèo nàn, tàn tật, hay mồ côi, cô độc.
Nếu ta đem lòng thương mến những kẻ vô phúc này cách riêng thì ta sẽ không
gây tai hại gì mà còn làm cho các trẻ khác mến phục ta.
LUÔN
LUÔN SÍT ĐÚNG.
Muốn được trẻ tín nhiệm, kính nể, ta cần phải “sít đúng”. Trong mọi việc;
ta phải sít đúng, trong lời nói, trong cách ăn mặc, trong việc giữ thời giờ.
Chúng ta phải noi gương cho các trẻ, ta hãy luôn luôn đúng giờ. Đã định
giờ nào hội họp hay học tập, thì đến giờ đó phải có mặt. Ta đã định giờ nào nghỉ
thì đến giờ đó ta phải nghỉ.
Ta phải đúng hẹn và giữ lời hứa, nếu ta có bận việc gì thì ta phải sớm báo
trước, hoặc hẹn lại đừng để trẻ chờ đợi, trách móc phiền phức rồi sau sẽ mất tín
và không cò giữ giờ giấc đúng qui định nửa, ta không trách trẻ được.
Ta luôn luôn đúng giờ, đúng hẹn, đúng lời nói, đúng cử chỉ, ăn mặc đàng
hoàng, lịch sự để trẻ nghe theo, làm theo.
ĐỨC
TÍNH CỦA NGƯỜI TRƯỞNG.
Hình thức con người thể hiện được
người có văn hóa, đạo đức.
Luôn luôn giữ mặt mũi, chân tay, thân thể sạch sẽ. Dùng khăn tay lau mũi,
khăn luôn luôn sạch, tóc chải cẩn thận. Quần áo sạch sẽ, gọn gàng, giản dị, tiện
lợi, chỉnh tề.
Đói cho sạch rách cho thơm.
Không được ăn mặc lôi thôi, đứt khuy, sổ chỉ phải khâu, rách phải vá. Quần
áo giản dị, tiện lợi, không vướng víu. Khi làm, khi chơi, khi đám tiệc phải
khang trang, tề chỉnh. Không ăn mặc lố lăng, không để móng tay dài, móng chân dài
bẫn. Chân phải đi giày, dép, hoặc guốc và giữ chân sạch sẽ.
-
Đi dứng
ngay ngắn, nhanh nhẹn.
-
Không gò
lưng, không giậm chân.
-
Không lê
giày, khua guốc.
-
Ngồi thẳng,
tự nhiên, không ngã nghiêng, ngã ngữa, không để chân lên bàn ghế.
-
Không
rung bàn ghế.
-
Khi ho,
ngáp, hắt hơi phải lấy tay che miệng.
-
Vẻ mặt
luôn luôn tươi vui, cởi mở, hoạt bát.
-
“Vui tánh
không tốn xu nào mà mua được tất cả”.
Có văn hóa trong ngôn ngữ.
-
Phải biết
chào khi gặp mặt và chia tay người khác.
-
Chào ai
phải nhìn vào mặt người ấy.
-
Ai cho gì,
giúp đỡ việc gì phải biết cám ơn.
-
Khi làm
hỏng hoặc làm phiền ai điều gì phải biết xin lỗi.
-
Đối với
người trên phải cung kính, phải biết thưa, vâng dạ.
-
Không nói
những điều gì mà mình không biết rõ.
-
Không nói
to hơn người đang nói với mình.
-
Không nói
chỉ riêng về mình.
-
Không nhìn
đi chỗ khác, làm như thế rõ ra mình mất lịch sự.
-
Phải nhã
nhặn và lễ độ.
Hành vi văn hóa trong khi ăn.
-
Khi ngồi
vào mâm hoặc bàn ăn phải quan tâm tới người chung quanh.
-
Đừng ngồi
sát mâm hoặc sát người bên cạnh, làm cản trở người khác.
“Ăn coi nồi, ngồi coi hướng”.
-
Cùng mọi
người làm những việc: so đũa, chia chén bát, xem ai chưa đủ, thiếu gì, có thể đi
lấy giúp và mời mọi người cùng ăn.
-
Khi ăn,
không hấp tấp, không nhai nhanh hoặc quá chậm.
-
Không
nhai nhồm ngoàm, hông húp sột soạt, không gõ đũa vào bát, hãy cố nhai không có
tiếng động.
-
Không nói
chuyện khi miệng còn đầy thức ăn, nếu có ai hỏi điều gì, trước hết hãy nuốt
xong đẽ rồi mới trả lời.
-
Không gắp
chòm lên trên hoặc chúi xuống dưới đũa người khác.
-
Khi gắp
thức ăn, không đảo bới để chọn, không gắp miếng to nhất và ngon nhất, vì thế là
tham ăn và không lễ phép.
-
Dùng thìa
chung để múc thức ăn.
-
Chỉ húp
canh khi đã múc thức ăn vào chén của mình.
-
Không húp
vào thìa chung vì như thế không hợp vệ sinh. Khi hết cơm phải chờ người ngồi gần
nồi gắp xong hoặc và xong mới đưa bát xin cơm.
-
Khi người
lớn đưa cơm hoặc đưa vật gì cho mình, phải đỡ hai tay. Đang ăn mà bị ho hoặc hắt
hơi phải lấy tay che miệng và quay mặt ra phía ngoài bàn. Nếu trong khi ăn lở xãy
ra sự đổ vở, hãy bỏ qua, đừng cáu nhăn làm ảnh hưởng tới sự vui vẻ và ngon lành
của mọi người.
-
Không chê
bai cơm không lành, canh không ngọt.
-
Không ăn
chậm quá để mọi người phải chờ đợi.
-
Không ăn
cạn thức ăn trong mâm, nhưng phải ăn sạch chén của mình mới bỏ đủa.
-
Ăn xong
lau miệng uống nước, rửa tay.
Hành vi khi tiếp khách và khi đến
nhà người khác.
-
Khi có
khách đến nhà, hãy niềm nở đón khách vào nhà, mời ngồi pha nước mời khách uống.
Nếu trong nhà có người quen với khách, hãy giới thiệu người này với người kia.
Khi đến nhà người khác.
-
Trước
khi vào nhà phải bấm chuông, gõ cửa. Nếu ở thôn quê phải lên tiếng từ ngoài ngõ
vào sân báo cho chủ nhà biết trước.
-
Trước
khi vào nhà nên chùi chân, rủ áo mưa, bỏ dép ngoài hiên. Nếu trong nhà đông người,
không nhất thiết chào từng người một, như thế mất nhiều thời gian và vô tình ngắt
câu chuyện của mọi người. Tốt hơn là chào chủ nhà, còn đối với những người khác
nên nhìn chung một lượt rồi gật đầu chào chung. Nếu có người lớn vào nhà thì nên
đứng dậy chào và đợi người lớn ngồi rồi mình mới ngồi.
-
Đi thăm
ai phải đúng hẹn, nếu có gì thay đổi phải kịp thời báo trước để người khác khỏi
chờ đợi phiền phức.
“Lời nói không mất tiền mua
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
-
Đi đám
cưới, liên hoan, ăn mặc chỉnh tề lịch sự, nói năng vui vẻ. Phải biết chúc mừng đôi
bạn và chia vui. Không lợi dụng bửa tiệc vui ăn nói quá trớn, cười ngã nghiêng
ngã ngữa, la ó um sùm.
-
Đi đám
tang, không ăn mặc lòe loẹt, phải biết chia buồn với họ.
-
Đi thăm
viếng bệnh nhân, phải biết thăm hỏi, an ủi và cầu chúc bệnh nhân sớm bình phục.
Thực hiện giờ giấc.
-
Tập dậy
đúng giờ quy định .
-
Xếp đồ
ngũ, sách vở có trật tự, mỗi thứ để vào một chỗ qui định. Như vậy lúc dùng khỏi
mất thì giờ tìm kiếm.
-
Đi đâu
phải chuẩn bị từ tối hôm trước, những đồ cần dùng mang theo, để sáng hôm sau khỏi
mất thời gian và hiếu sót.
-
Mượn cái
gì của ai phải trả đúng hẹn, không chờ đợi để người ta phải đi đòi.
-
Không
bao giờ hứa điều gì mình không làm được. Nếu đã lỡ hứa dù khó khăn đến đâu cũng
phải cố gắng làm, cuối cùng không được phải xin lỗi ngay.
-
Đi đâu
bao giờ về phải xin phép và đúng giờ, đừng để cho mọi người chờ đợi và lo lắng,
phải biết sắp xếp công việc làm trong ngày.
Trước khi ra khỏi nhà.
Phải soi gương, chải tóc, quần áo chỉnh tề. Ra đường gặp người họ hàng bà
con quen biết phải chào hỏi lễ phép, luôn luôn đi về phía tay phải, nhường bước
cho người già yếu, tàn tật. Nếu có người trượt té phải giúp đỡ.
Đối với cha mẹ.
Phục tùng cha mẹ: không cãi lời cha mẹ. Khi ta xin phép mà các ngài không
cho thì đừng phiền trách, oán hận hay tỏ thái độ. Hỏi ý kiến cha mẹ cách lễ độ
bằng những lời tao nhã: Thưa, xin, trình.
-
Không được
làm ô danh, xấu tiếng cha mẹ bằng lời nói hay cách sống của mình.
-
Không được
khinh thị, hay sỉ nhục các ngài bằng những cử chỉ khinh miệt bằng lời bất nhã,
hành động vô lễ.
-
Cầu nguyện
hằng ngày cho cha mẹ, luôn luôn tỏ hành vi, cử chỉ tôn trọng các ngài trong gia
đình, ngoài đường, khi hầu chuyện cũng như mọi lúc, mọi nơi.
-
Luôn luôn
ở lòng ngay thẳng với các ngài.
-
Hãy đáp
trả các ngài bằng tình yêu ân cần.
Đối với mọi người (nam, nữ, già
trẻ, lớn bé).
Đối với mọi người, ta phải kính trọng và đối xử lịch thiệp. Tôn trọng và
yêu mến họ như anh em và cố gắng làm gương sáng cho họ. Nếu phải giúp đỡ hay
khuyên bảo hãy làm cách vui vẻ.
-
Khi nhận
được lời khuyên tốt hay được cho biết khuyết điểm, ta phải thành thật cám ơn.
-
Ta sẵn sàng
tha thứ những lỗi lầm họ làm cho mình.