Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013

14 BỨC TRANH TỬ ĐẠO VIỆT NAM TẠI HỘI THỪA SAI PARIS (2)


8. Bức họa cuộc tử đạo của Đức cha Pierre Dumoulin Borie Cao
ngày 24-11-1838 tại Đồng Hới
Kim Ân
Bức họa cao 1,690 m, rộng 1,074 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng theo luật cường điệu, dường như có áp dụng đôi chút nghệ thuật tả thực. Trong số mười bốn bức, đây là một trong những bức họa có nét vẽ tương đối sắc sảo.
Bức họa tả cảnh pháp trường với những chi tiết giống như trong đa số các bức họa khác. Một đội quân cầm giáo đứng vòng quanh pháp trường. Hai viên quan cưỡi voi chủ trì cuộc hành quyết. Bên ngoài vòng vây quân lính, dân chúng đứng xem khá đông. Ở trung tâm bức họa, Đức cha Borie Cao đang quì trên một manh chiếu, hai tay bị trói về phía sau, áo bị lột trễ xuống tới bên trên thắt lưng [40]. Xung quanh Đức cha Borie Cao có năm người khác: viên trưởng toán đao phủ mặc áo đỏ đứng cắp roi, một viên đao phủ đứng chống gươm, viên đao phủ đang vung gươm và cạnh đó là hai viên đao phủ khác. Bức họa cho thấy máu chảy lênh láng trên cổ, chảy xuống áo Đức cha Borie Cao và xuống manh chiếu.
Thực ra, họa sĩ đã không thể tả hết những điều đã xảy ra. Chúng tôi xin trích dịch lại một đoạn trong cuốn La salle des Martyrs du séminaire des Missions-étrangères, do Hội MEP ấn hành năm 1865: “… Tên lính được lệnh chém đầu ngài đã uống say để bớt sợ hãi, đến nỗi tay anh ta bị run rẩy nên chém không trúng. Nhát chém thứ nhất trúng tai và theo đà trượt xuống hàm dưới rồi làm vỡ hàm. Nhát chém thứ hai hớt đi phần bả vai và ngoặt vào cổ. Nhát chém thứ ba khá hơn, nhưng chưa thể làm đầu rơi xuống đất. Thấy cảnh này, viên quan án sát [41] hoảng sợ lùi lại. Phải tới nhát chém thứ bảy, màn trình diễn đẫm máu này với hoàn tất, nhưng chỉ sau khi vị tử đạo đã ngã xuống, các viên đao phủ mới cắt đầu ngài lìa khỏi thân”. [42]
Phía trước mặt vị tử đạo, chiếc gông vừa tháo khỏi cổ bị ném xuống đất. Cạnh đó là phiến gỗ sơn vôi ghi bản án. Chúng tôi chỉ còn đọc được lõm bõm một số chữ trên bản án như sau: ‘Danh Cao tức … Phú Lãng Sa quốc … Gia Tô tà giáo cuồng dụ ngu dân … nã tróc quả thị Tây dương nhân đạo trưởng … trảm lập quyết tư bài thị. Minh Mạng thập cửu niên thập nguyệt sơ bát nhật”.
-----
40] Theo cuốn sđd, trang 14-15 và 214-216, cùng bị xử tử ngày 24-11-1838 với Đức cha Borie Cao còn có hai vị khác là cha Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm và cha Phêrô Võ Đăng Khoa. Cũng cuốn sách trên, ở trang 15 còn cho biết thêm rằng bức họa còn được lưu giữ hiện nay là một bản sao, được vẽ để gửi tặng thân mẫu Đức cha Borie Cao. Có lẽ vì thế mà họa sĩ đã chỉ vẽ cảnh hành quyết Đức cha Borie Cao và lược bỏ cảnh xử giảo cha Điểm và cha Khoa. Cuốn sách cũng cho biết Đức cha Borie Cao ngước mắt lên trời, nhìn về phía tây.
[41] Bản Pháp ngữ ghi là “le mandarin criminel". Chúng tôi xin tạm dịch là quan án sát.
[42] Hội MEP, sđd, tr. 216: “Le soldat auquel on avait imposé l’ordre de lui trancher la tête, s’était enivré pour s’étourdir, en sorte que sa main, mal affermie, portait les coups à faux. Le premier atteignit l’oreille et dans sa violence descendit jusqu’à la mâchoire inférieure qu’il entama. Le second enleva le haut des épaules et le replia sur le cou. Le troisième fut mieux dirigé, mais il ne fit point tomber la tête. A cette vue le mandarin criminel recula d’horreur. Il fallut y revenir jusqu’à sept fois pour achever cette œuvre de sang, et ce ne fut même qu’après que le martyr fut tombé, qu’on sépara la tête du tronc”. Cuốn La salle des Martyrs do Hội MEP ấn hành năm 1988 còn cho biết thêm rằng sau đó viên đao phủ đã bị đánh đòn.
9. Bức họa cuộc tử đạo 
Ba thầy Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Văn Truật, 
ngày 18-12-1838 tại Sơn Tây
Kim Ân
Bức họa cao 1,680 m, rộng 1,218 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng và được vẽ theo luật đồng hiện, luật cường điệu với góc nhìn phi điểu. Nét vẽ trong bức họa này không sắc sảo lắm [43]. Bức họa được chia làm hai phần khá rõ rệt: tra khảo – hành quyết.
Tra khảo: Phần dưới của bức họa là cảnh thẩm tra các Kitô hữu. Phía trái, một viên quan mặc áo đỏ đang ngồi trên sập, bốn viên quan khác đang ngồi trước mặt ông ta. Ba thầy giảng mặc áo nâu, đeo gông và mang xiềng, đứng đầu là thầy Mĩ, sau đó là thầy Đường và thầy Truật. Phía sau ba thầy, hai tên lính đang xui các thầy chối đạo. Trước mặt các thầy, bẩy Kitô hữu vừa bước qua thập giá vẫn còn đeo gông, một người khác đang bước qua thập giá.
Hành quyết: Cảnh hành quyết chiếm gần trọn bức họa. Phía dưới, góc phải là hình ảnh thành Sơn Tây, với ba chữ “Sơn Tây tỉnh”, nơi ba thầy đã bị giam giữ từ tháng 6-1837. Pháp trường, nơi diễn ra cuộc hành quyết cũng nằm gần tòa thành này.
Khung cảnh hành quyết trong bức họa này cũng giống như trong hầu hết các bức họa khác. Một đội quân cầm giáo đứng vây quanh pháp trường, hai viên quan cưỡi ngựa và hai viên quan cưỡi voi giám sát cuộc hành quyết. Bên ngoài, dân chúng tới xem khá đông. Ở góc trái, bên ngoài vòng vây quân lính, một người mặc áo nâu đang đứng, đó là cha Triêu. Vị linh mục này đã đón các vị chứng nhân của Chúa trên đường ra pháp trường để ban phép xá giải cho các vị [44]. Đứng cách cha Triêu không xa là một nữ tu cũng mặc áo nâu, tay phải cầm nón, tay trái đang đưa vạt áo lên lau nước mắt [45].
Cùng bị xử tử với ba thầy giảng còn có chín người bị tội chém đầu và bốn người bị xử giảo như ta có thể quan sát trong bức họa. Ba thầy giảng bị xử giảo, mỗi vị nằm trên một manh chiếu do giáo dân đưa tới. Thầy Đường vẫn còn mặc nguyên cả áo, thầy Mĩ và thầy Truật bị lột áo tới thắt lưng. Tay các thầy bị trói quặt ra sau lưng, chân bị trói. Một chiếc cọc đóng chắc phía chân, một chiếc cọc khác đóng ngang phía cổ và có một tên lính giữ cọc này. Một sợi dây được buộc vào chiếc cọc và tròng qua cổ mỗi vị. Ba tên lính cầm đầu kia của sợi dây và chờ hiệu lệnh. Sau lệnh loa của viên quan cưỡi voi, một hồi chiêng vang lên và các tên lính đồng loạt kéo các sợi dây. Thầy Mĩ và thầy Truật có thêm chiếc gông đệm dưới ngực.
Trong bức họa, thầy Mĩ đã tắt thở. Một tên lính đốt gan bàn chân của thầy theo như thông lệ cuộc xử giảo, để chắc chắn rằng người tử tội đã chết. Phía đầu thầy có cắm một phiến gỗ sơn vôi ghi bản án. Chúng tôi đọc được lõm bõm những chữ như sau: “Nguyễn Văn Hữu [46] quán Hà Nội tỉnh Lí Nhân phủ Thanh Liêm huyện Sơn Nga xã cai phạm nguyên tòng Gia Tô đạo … kinh dĩ tam khai mộc ( ?) hựu bất khẳng khóa quá thập tự bản niên thu thẩm khâm án xử giảo lập quyết tư bài. Minh Mạng thập cửu niên cửu nguyệt nhị thập cửu nhật”. [47] Ba bộ xiềng sắt xếp ngay ngắn gần phiến gỗ ghi tội trạng. Viên trưởng toán đao phủ mặc áo đỏ đeo gươm đứng cách đó không xa.
Bốn tên lính vẫn đang kéo dây xiết cổ thầy Truật. Chúng tôi đọc được một số chữ như sau trên phiến gỗ ghi bản án của thầy: “Nguyễn Văn Truật quán … phủ Sơn Vi huyện Hà Thạch xã cai phạm nguyên tòng Gia Tô đạo … kinh dĩ tam khai mộc ( ?) hựu bất khẳng khóa quá thập tự bản niên thu thẩm khâm án xử giảo lập quyết tư bài. Minh Mạng thập cửu niên cửu nguyệt nhị thập cửu nhật”.
Bốn tên lính khác cũng đang kéo sợi dây xiết cổ thầy Đường [48]. Chúng tôi đọc được trên phiến gỗ ghi bản án một số chữ như sau: “Nguyễn Văn Đường quán tại Hà Nội tỉnh Lí Nhân phủ Thanh Liêm huyện Ninh Phú xã cai phạm nguyên tòng Gia Tô đạo … kinh dĩ tam khai mộc ( ?) hựu bất khẳng khóa quá thập tự bản niên thu thẩm khâm án xử giảo lập quyết tư bài. Minh Mạng thập cửu niên cửu nguyệt nhị thập cửu nhật”. Một viên quan mặc áo xanh, có lính che lọng, đứng ngay bên nơi hành quyết thầy.
-------
[43] Cuốn sđd, trang 16 cho biết rằng bức họa này chỉ là một bản sao.
[44] Cuốn sđd, trang 221 thuật lại rằng cha Triêu đã bất chấp nguy hiểm, bốn lần lẻn vào nhà lao để giải tội và trao Mình Thánh Chúa cho ba thầy giảng.
[45] Cuốn sđd, trang 18 kể lại rằng đây là nữ tu đã cung cấp những vậy dụng thường ngày cho các vị tử đạo trong suốt thời gian các thầy bị giam cầm.
[46] Nguyễn Văn Hữu là tên chính thức của thầy Mĩ.
[47] Nguyên văn bản án được dịch ra Pháp ngữ ở cuốn sđd, trang 18-19 với một số dị biệt: “Le sieu Hua (nom supposé de Paul Mi), de la maison de Ngu-Yen, dont la patrie est Son-Ngà, commune de l’arrondissement de Thanh-Oaï, est coupable et a déjà été condamné pour faire profession de suivre Jésus.
La sentence d’automne de l’année courante ordonne l’exécution du coupable par la trangulation. De Minh-Mênh, la 19e année, le 2e de la 11e lune”.
[48] Cuốn sđd, trang 223 kể rằng thầy Đường đã phải chịu cơn hấp hối khó khăn hơn thầy Mĩ và thầy Truật. Vì thiếu kinh nghiệm, các tên lính hành hình đã không biết cách kéo dây, khiến đầu thầy bị đảo qua đảo lại và bê bết đất. Cơn hấp hối cũng kéo dài hơn.
 10. Bức họa cuộc tử đạo của cha Phaolô Phạm Khắc Khoan
thầy Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh, và thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu,
ngày 28-04-1840 tại Ninh Bình
Bức họa cao 1,470 m, rộng 0,797 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng và được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc sảo và có nhiều điểm tương đồng về cách sử dụng mầu sắc, bố cục, hình họa so với bức vẽ cuộc tử đạo của cha Phêrô Lê Tùy. Chúng tôi tạm chia bố cục bức họa làm ba phần: giải ra pháp trường – cuộc hành quyết – mai táng.
Giải ra pháp trường : Phía trên cùng của bức họa là cảnh đoàn quân áp giải cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và thầy Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh ra pháp trường. Đoàn quân vác giáo, hoặc gươm tuốt trần trên vai. Trong số ba vị chứng nhân của Chúa, cha Khoan đi đầu [49], sau đó là thầy Hiếu và sau cùng là thầy Thanh. Phía trước mỗi vị đều có một tên lính vác một phiến gỗ sơn vôi và ghi bản án.
Cuộc hành quyết : Cảnh hành quyết ở phần trung tâm và chiếm gần trọn bức họa với rất nhiều chi tiết thú vị. Giống như ở hầu hết các bức họa tả cảnh hành quyết khác, một đội quân cầm giáo đứng vây quanh pháp trường, viên quan giám trảm mặc áo xanh cưỡi ngựa [50], dân chúng tới xem khá đông, với y phục và tư thế đa dạng. Ở trung tâm của bức họa, ba vị quì trên chiếu điều, các phiến gỗ ghi bản án cắm ngay bên nơi xử. Đầu cha Khoan đã bị chém lìa khỏi cổ [51], viên trưởng toán đao phủ cầm chiếc đầu giơ lên cao. Tên đao phủ đã chém đầu cha Khoan dùng thanh gươm còn vấy máu cắt vào chân hắn [52]. Gần đó, tên đao phủ vẫn đang tiếp tục giơ gươm chém xuống cổ thầy Hiếu. Tên đao phủ thứ ba đang dùng gươm cứa cổ thầy Thanh, vì đầu thầy hầu như đã lìa cổ sau một nhát chém.
Cạnh nơi hành quyết, xiềng và gông cùng với kìm và búa phá gông xiềng vẫn còn nằm rải rác đây đó. Bên trong vòng vây quân lính, liền bên xác cha Khoan, hai người đàn ông đang ngồi để chuẩn bị đem xác thánh nhân đi. Xa hơn một chút, một người đàn bà ngồi ngay dưới chân viên quan đánh chiêng. Bà ta đã dọn sẵn một bình rượu và cơi trầu để trong thúng, dùng làm lễ vật xin quan giám trảm cho lấy xác các vị tử đạo. Ở ngoài vòng quân lính, chếch về phía dưới, góc trái, hai người đàn bà đang ngồi cạnh chiếc thúng với những xấp vải dùng để tẩm liệm xác các vị tử đạo. Gần chỗ hai bà là một đoàn bốn người hành khất áo quần rách rưới.
Mai táng : Bức họa không tả rõ công việc mai táng, nhưng ở phía dưới có hình vẽ một ngôi làng, đó là làng Yên Mối [53], nơi chôn cất xác thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu. Chếch về góc phải, phía dưới bức họa, một người đàn ông đang vác phiến gỗ ghi bản án. Cạnh ông ta là mấy người đàn ông đang khiêng một chiếc cáng. Những người này đang đưa xác cha Phaolô Phạm Khắc Khoan về mai táng tại giáo xứ Phúc Nhạc [54].
--------
[49] Cuốn sđd, trang 259 thuật lại rằng trên đường ra pháp trường, cha Phaolô Phạm Khắc Khoan và hai thầy giảng đã cao giọng hát bài Te Deum et Benedicamus Domino.
[50] Cuốn sđd, trang 260-261 cho biết rằng vì có thiện cảm với ba vị tử đạo, các viên quan đã khá dễ dãi và để mặc cho các tín hữu lấy xác và thu nhặt các thánh tích tại pháp trường.
[51] Cuốn sđd, trang 260 cho biết rằng đầu cha Khoan lìa khỏi cổ sau ba nhát chém. Thầy Hiếu đã phải chịu khá nhiều nhát chém. Còn thầy Thanh, chỉ sau một nhát chém, hầu như đầu thầy đã lìa khỏi cổ.
[52] Cuốn sđd, trang 8 nói rằng tên đao phủ đã làm thế vì hắn ta tin rằng nhờ trộn lẫn máu của cha Khoan với máu hắn, hắn sẽ nhận được sự can đảm và gan dạ của ngài.
[53] Làng Yên Mối xưa nay là giáo xứ Gia Lạc, giáo phận Phát Diệm.
[54] Cha Phaolô Phạm Khắc Khoan là cha xứ Phúc Nhạc khi bị bắt tại họ Đông Biên cũng thuộc giáo xứ này. Xứ Phúc Nhạc cũng là nơi từng an táng rất nhiều vị tử đạo.
 11. Bức họa cuộc tử đạo 
của ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh và thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự
ngày 10-07-1840 tại Quảng Bình
Kim Ân
Bức họa cao 1,710 m, rộng 0,947 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc sảo và có nhiều điểm tương đồng về cách sử dụng mầu sắc, bố cục, hình họa so với những bức họa tả cuộc tử đạo của cha Phêrô Lê Tùy, cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, cuộc vây bắt Đức cha Borie Cao và một số bức họa khác. Chúng tôi tạm chia bố cục bức họa làm hai phần: giải ra pháp trường – cuộc hành quyết.
Giải ra pháp trường : Nửa trên của bức họa là hình ảnh một góc của tòa thành có kì đài cao. Ở góc trái, gần chân kì đài có chữ “Quảng Bình tỉnh”. Trên cổng ở góc trái có chữ “chính tây”. Phía trên cùng là một khúc sông với khá nhiều thuyền lớn nhỏ [55]. Góc phải của bức họa có hai chữ “đại giang”. Tại ngôi nhà gần cổng “chính tây” có chữ “ngục thất”. Một đoàn quân mang gươm giáo trên vai, có hai vị quan cưỡi ngựa chỉ huy, đang áp giải hai chứng nhân của Chúa đi từ ngục thất, qua cổng thành. Hai chứng nhân vai đeo gông, có một tên lính vác phiến gỗ ghi bản án đi phía trước.
Ông trùm Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (tức ông lang Năm) đi trước, phía sau ông, người con trai cầm nón che đỡ cho cha cái nắng dữ dội của mùa hè [56]. Phía bên trên đầu ông trùm Năm có hai chữ “lang Năm”. Thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự đi phía sau và cũng đeo gông. Phía bên trên đầu thầy có hai chữ “Văn Tự”. Ở đầu đoàn người có dòng chữ “tống chí luận hình”. Con đường đoàn người đang đi dẫn tới một cổng lớn với chữ “Quảng Bình quan”. Trên các chòi canh ở dọc theo tường thành hai bên cổng có những khẩu thần công.
Cuộc hành quyết : Khung cảnh hành quyết được vẽ khá sinh động. Một đội quân cầm giáo đứng vây quanh pháp trường. Hai viên quan mặc áo xanh ngồi trên lưng ngựa chủ trì cuộc hành quyết. Ở phía trên đầu viên quan đang cầm loa, có lọng che, là chữ “giám sát quan”. Phía trên đầu viên quan kia là chữ “thị sát”. Dân chúng với y phục và tư thế đa dạng đến xem khá đông.
Ở giữa pháp trường, hai chứng nhân nằm trên những manh chiếu. Hai bộ gông bị ném chỏng chơ gần nơi hành quyết. Phiến gỗ luận tội cũng cắm liền đó. Tay các tử tội bị buộc chặt vào cọc cắm xuống đất. Hai chân của các tử tội bị trói và cũng bị buộc vào một cây cọc đóng xuống đất. Một sợi dây tròng qua cổ ông trùm Năm, mỗi đầu sợi dây là ba tên lính đang ra sức kéo. Ngồi sát nơi ông trùm Năm chịu hành hình có bẩy người phụ nữ, là những người con gái và con dâu của ông. Phía sau họ là hai người con trai của ông trùm Năm đang đứng. Về phần thầy Tự, ba tên lính phía tay phải đã buông dây, chiếc cọc ghim tay phải thầy xuống đất cũng đã bị bung lên. Ba tên lính kéo dây phía tay trái đang chỉ trỏ về phía thầy. Máu trào ra từ mồm và mũi thầy [57].
------
[55] Cuốn sđd, trang 261-262 cho biết rằng khi cuộc bách hại nổ ra dữ dội vào năm 1838, dưới thời Minh Mạng, ông Antôn Năm đã mua một chiếc thuyền và sống trên đó.
[56] Cuốn sđd, trang 267 kể rằng các chứng nhân bị điệu ra pháp trường lúc giữa trưa.
[57] Cuốn sđd, trang 16 cho biết thêm rằng thầy Tự đã chịu cơn hấp hối dai dẳng và đau đớn. Những tên đao phủ cứ kéo rồi lại buông dây nhiều lần cho đến khi thầy trút hơi thở. Cũng vì thế mà máu trào ra từ mũi và miệng thầy.

12. Bức họa cuộc tử đạo của cha Phêrô Phạm Khanh
ngày 12-07-1842 tại Hà Tĩnh

Bức họa cao 1,670 m, rộng 0,952 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng theo luật phi điểu và luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này rất sắc sảo và có nhiều điểm tương đồng về cách sử dụng mầu sắc, bố cục, hình họa so với những bức họa tả cuộc tử đạo của cha Phêrô Lê Tùy, cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, cuộc vây bắt Đức cha Borie Cao và một số bức họa khác. Chúng tôi tạm chia bố cục bức họa làm ba phần: bắt và giải đi – tra khảo và giam cầm – cuộc hành quyết.
Bắt và giải đi: Ở phần dưới, bức họa giới thiệu một con thuyền khá lớn xuôi theo dòng sông [58]. Tại khúc sông sát mép dưới bức họa, một con thuyền nhỏ hơn đậu bên bờ sông, gần đó, một người đang cõng một cụ già, liền phía trên lưng cụ già là chữ “ông Khanh” [59]. Phía trước hai người là một ngôi nhà có tường bao quanh với chòi canh khá cao, liền phía trên là chữ “Tam Sa đồn” [60]. Từ đồn Tam Sa có một con đường đi xuyên qua những dãy nhà lá. Dãy nhà bên hữu ngạn dòng sông có chữ “hạ thị” – chợ dưới, dãy nhà bên tả ngạn có chữ “thượng thị” – chợ trên. Một bến đò nối hai khu chợ hai bên dòng sông với chữ “đò hạ”. Chếch về phía trên, bên hữu ngạn còn có hai khu nhà. Khu nhà phía dưới có chữ “Thọ Kì xã” [61], khu nhà phía trên có chữ “An Thái tộc”.
Đi qua đò hạ, một đoàn lính vác gậy và giáo mác do một viên quan mặc áo xanh dẫn đầu đang áp giải cha Khanh về phủ Đức Thọ. Cha Khanh mang gông, gần phía dưới chân cha có chữ “đồn quan giải phủ”. Ở khu nhà có những cổng lớn và tường bao quanh, phía trước mặt đoàn người, có dòng chữ “Đức Thọ phủ”. Bên ngoài tường phủ đường có một người đang dắt ngựa, một người khác đang ngồi gục mặt, phía dưới người này có chữ “thằng cắt cỏ ngựa”.
Tra khảo và giam cầm: Ở phần trên của bức họa là một tòa thành lớn. Phía sát mép trên của bức họa là chữ “Hà Tĩnh tỉnh”. Cổng bên phải của tòa thành có chữ “chính bắc môn”. Cổng sát mép trái có chữ “chính tây”. Bên trong tòa thành, giữa công đường có hai viên quan áo đỏ và áo xanh đang ngồi, mỗi bên tả và hữu có hai người ngồi. Ở sân trước công đường, cha Khanh bị căng ra đánh đòng. Chân tay cha bị trói và bị buộc vào cọc ghim xuống đất. Ở phía trước và phía sau cha, mỗi phía có hai tên lính cắp gươm. Gần phía chân cha, một tên lính cầm roi đang chờ lệnh quan. Sát thềm công đường là chữ “tỉnh tra”. Gần công đường, chếch về bên trái là cảnh cha đeo gông ngồi trong nhà ngục. Phía trên nhà ngục có chữ “ngục thất”.
Cuộc hành quyết: Ngày 12-7-1842, cha Phê rô Phạm Khanh bị 30 tên lính vác giáo điệu từ nhà ngục, qua cổng bắc đi ra pháp trường. Cha Khanh đeo gông, bốn tên đao phủ vác gươm đi trước và sau cha. Một tên lính vác phiến gỗ ghi bản án đi phía trước cha. Trên phiến gỗ có chữ “Thiệu Trị nhị niên nguyệt nhật”. Phía đầu đoàn người là dòng chữ “tống chí luận hình”.
Khung cảnh pháp trường được vẽ khá sinh động. Một đội quân cầm giáo vây quanh khu hành hình. Hai viên quan cưỡi voi chỉ huy cuộc xử. Phía đầu viên quan có lọng che là chữ “giám sát quan”. Phía đầu viên quan kia là chữ “thị sát”. Dân chúng với y phục và tư thế đa dạng tới xem khá đông. Ở chính giữa pháp trường, xác cha Khanh nằm sấp trên chiếu, tay bị trói quặt ra sau lưng, máu phun lênh láng từ cổ. Chiếc gông vừa được gỡ ra nằm gần đó. Toán đao phủ và một viên quan đứng vây xung quanh nơi hành quyết. Sau ba hồi chiêng, tên đao phủ chính chém rơi đầu cha bằng một nhát chém duy nhất, sau đó hắn đưa thanh gươm đẫm máu lên miệng liếm. Viên trưởng toán đao phủ giơ đầu cha lên cao, hướng về phía hai viên quan cưỡi voi [62].
Phiến gỗ ghi bản án được cắm sát bên nơi hành quyết. Chúng tôi đọc được một số chữ trên bản án như sau: “… Khanh quán Hà Nội tỉnh Thường Tín phủ Phú Xuyên huyện Quảng Nguyên xã Thị thôn hệ thị đạo trưởng … một lương tâm … tòng tà giáo bất cố sinh thành bất phụng tổ tiên khâm án xử … vi trảm quyết tư bài.” [63]
-------
[58] Tài liệu về cuộc tử đạo của cha Phêrô Phạm Khanh cho biết rằng cha dùng thuyền đi gặp cha Nghiêm và dọc đường cha bị bắt.
[59] Lúc bị bắt, cha Khanh đã ngoài 60 tuổi. Trước đó, khi ghé qua Thọ Ninh, cha bị chó cắn và phải nghỉ tại đó một tuần.
[60] Tài liệu cũng cho biết cha Khanh bị bắt tại đồn Phù Sa.
[61] Cha Khanh đã từng coi sóc xứ đạo Thọ Kì trong vòng một năm. Trong thời Minh Mạng, cha cũng đã từng ẩn trốn tại Thọ Kì.
[62] Tài liệu viết về cha Khanh còn kể rằng dân chúng cả lương lẫn giáo ùa vào dùng giấy và vải thấm máu vị tử đạo.
[63] Cuốn sđd của Hội MEP, trang 297 và một số tài liệu khác đều cho biết rằng cha Khanh sinh tại Hòa Duệ, Nghệ An. Nhưng những chữ trên phiến gỗ ghi bản án trong bức họa lại đề rằng cha Khanh quê tại Hà Nội.
13. Bức họa cuộc tử đạo của cha Augustin Schoeffler Đông
ngày 01-05-1851 tại Sơn Tây
Bức họa cao 0,890 m, rộng 1,295 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng. Bức họa được vẽ theo góc nhìn cố định duy nhất, theo luật cận viễn và có dùng bóng sáng tối.
Khung cảnh pháp trường được vẽ lại với nhiều chi tiết giống với những cuộc hành quyết tại các bức họa khác. Ở bức họa này, phía xa xa là thành Sơn Tây với cột cờ cao. Tại nơi hành quyết, hai vị quan cưỡi voi chỉ huy cuộc xử án. Một đội quân đông đảo vây quanh pháp trường bằng ba vòng tròn: vòng trong cùng cầm giáo, vòng thứ hai bồng súng và vòng thứ ba vác gươm trên vai [64].
Dân chúng kéo tới rất đông đảo để xem cuộc hành quyết. Cha Augustin Schoeffler quì trên đất, áo lột xuống bên trên thắt lưng, tay bị trói về phía sau. Bức họa cũng cho thấy trên cổ vị tử đạo đã có vết chém. Trong bức họa, viên đao phủ chính đang vung gươm. Vì run rẩy nên tên đao phủ phải chém tới ba nhát, sau đó hắn còn phải dùng gươm cứa cho đầu lìa khỏi cổ. Xung quanh vị tử đạo còn có ba viên đao phủ khác vác gươm hoặc chống gươm xuống đất. Xích xiềng được tháo ra và ném ngay gần nơi hành quyết. Viên chỉ huy toán đao phủ mặc áo đỏ đứng gần đó. Ngay trước mặt vị tử đạo là phiến gỗ sơn vôi ghi bản án [65].
Chúng tôi cũng xin dịch lại một đoạn trong bức thư Đức cha Retord Liêu nói về bức họa này:
“Đó là cách thức tạo nên các vị tử đạo tại nơi đây: một đoàn người oai nghiêm gồm các vị quan cưỡi voi và quân lính mang theo vũ khí, một đám đông đảo đủ hạng những kẻ đi xem, và ở giữa đoàn người này, một vị tông đồ trẻ tuổi, trái tim bừng cháy lửa mến yêu, tay trói giặt sau lưng, mắt hướng lên trời là nơi ngài đang nóng lòng vươn tới; một linh mục người Pháp có học vấn xuất sắc, nhân đức vượt trội, quì gối xuống đất và gần bên ngài là viên đao phủ vung gươm chém đầu ngài ! Vâng, thưa Quí Ngài, đó là cách thức tạo nên các vị tử đạo tại nơi đây. Có lẽ những người am hiểu sẽ thấy bức họa này ít phù hợp với những chuẩn mực nghệ thuật, vì đó là tác phẩm của một nghệ sĩ chưa từng được học hành về hội họa nơi sách vở hay tại trường của bất cứ vị thầy nào. Nhưng vẻ đẹp của tác phẩm này không quan trọng lắm, chính chủ đề của bức họa mới là yếu tố quyết định sự tò mò đầy lòng thành kính của Quí Vị: hẳn Quí Vị cũng sẽ thấu hiểu được chủ tâm của kẻ gửi bức họa này tới Quí Vị, như một bằng chứng khiêm tốn của lòng biết ơn, đối với sự quan tâm mà Quí Vị đã luôn dành cho sứ vụ của kẻ hèn mọn này.” [66]
-------
[64] Cuốn sdd, trang 26-27 nói rằng viên quan chỉ huy cuộc xử án sợ các Kitô hữu nổi dậy cướp tù nên đã đưa đội quân đông đảo áp giải và canh phòng pháp trường.
[65] Phiến gỗ này hiện vẫn còn được lưu giữ tại Phòng các thánh tử đạo tại trụ sở Hội Thừa Sai Paris. Chúng tôi đọc được ở mặt trước phiến gỗ này một số chữ như sau: “NHÂT ĐẲNG Gia Tô tà giáo …". Mặt sau của phiến gỗ có hàng chữ: “Tự Đức tứ niên tứ nguyệt sơ nhị nhật”. Bản dịch Pháp ngữ có một số sai biệt với nội dung như sau: "Malgré la sevère défense portée contre la religion de Jésus, le sieur Augustin, prêtre européen, a osé venir clandestinement ici pour prêcher et séduire le peuple. Arrêté, il a tout avoué. Son crime est patent. Que le sieur Augustin ait la tête tranchée et jetée dans le fleuve. 4e année de Tu-Duc; 1er de la 3e lune”
[66] Launay Andrien, Les Cinquante-deux serviteurs de Dieu, tome II, éditions de Téqui, Paris 1893, tr. 131: “Voilà donc comment se font ici les martyrs: un imposant cortège de mandarins sur leurs éléphants et de soldats sous les armes, un grand concours de spectateurs de tout genre, et au milieu de cet appareil, un jeune apôtre, le cœur enflammé d’amour, les mains liées derrière le dos, les yeux élevés vers le ciel où il lui tarde de s’élancer; un prêtre françcais d’une instruction brillante, d’une haute vertu, à genoux sur la terre et près de lui le bourreau qui brandit son sarbre pour lui trancher la tête ! Oui, Messieurs, voilà comment se font ici les martyrs. Peut-être les connaisseurs trouveront-ils ce tableau peu conforme aux règles de l’art, car il est l’œuvre d’un artiste qui n’a jamais étudié la peinture ni dans les livres ni à l’ecole d’aucun maître. Mais peu vous importera la beauté du travail; c’est le sujet en lui-même qui fixera votre pieuse curiosité: vous apprécierez aussi l’intention de celui qui vous l’envoie, comme un faible témoignage de reconnaissance, pour l’intérêt que vous avez toujours porté à sa mission”.

14. Bức họa cuộc tử đạo của cha Jean-Louis Bonnard Hương,
ngày 01-05-1852 tại Vĩnh Trị
Kim Ân
Bức họa cao 1,070 m, rộng 1,789 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng. Phần chính của bức họa được vẽ rất sống động từ góc nhìn cố định theo luật cận viễn và có dùng bóng sáng tối đồng thời áp dụng cả luật đồng hiện trong hội họa dân gian. Chúng tôi tạm chia bố cục bức họa thành hai phần: sau cuộc hành hình – nghi thức an táng.
Sau cuộc hành hình: Ở phía dưới, góc phải, bức họa giới thiệu phía xa xa một tòa công đường. Gần tòa công đường là một nhóm lính cầm giáo đeo gươm. Viên quan giám sát cưỡi trên lưng voi với một nhóm lính cầm mộc đeo gươm đứng gần đó [67]. Một nhóm giáo dân ngồi ở góc bức họa [68].
Viên đao phủ chém đầu cha bằng một nhát chém duy nhất. Trong bức họa, hắn vẫn còn đứng chống gươm xuống đất. Bốn tên lính đang khiêng xác cha, một tên khác xách đầu cha bước về phía hai chiếc thuyền, máu chảy lênh láng dưới đất [69]. Cách hai chiếc thuyền lớn không xa, bức họa giới thiệu cảnh bốn chiếc thuyền nhỏ của giáo dân đang vớt xác thánh nhân từ lòng sống ở độ sâu chừng 25 bộ, tức khoảng 7,5 m.
Nghi thức an táng: Xác vị tử đạo lập tức được đưa về nhà tràng Vĩnh Trị [70], được mặc áo lễ và đặt tại nhà nguyện nhà tràng với đèn đuốc sáng trưng như ta thấy trong phần chính của bức họa. Lúc đó khoảng 1 giờ sáng ngày 02-05-1852. Các giáo hữu làng Vĩnh Trị và các thầy nhà tràng tới kính viếng xác vị tử đạo.
Trong bức họa, cha Phaolô Lê Bảo Tịnh, giáo sư nhà tràng, mặc áo trắng đứng ngay gần xác vị tử đạo. Ở phía dưới của bức họa, một nhóm phụ nữ đã vượt qua hàng rào nhà tràng để vào xem xác vị tử đạo, nhưng một thầy giảng mặc áo nâu, tay cầm roi đang xua đuổi họ. Xác vị tử đạo được quàn tại đó cho tới tối ngày hôm sau,
Đức Cha Retord Liêu cùng một vị thừa sai, một linh mục Việt Nam và các thầy giảng tới cử hành nghi thức an táng. Trong bức họa, Đức cha Retord Liêu và đoàn tùy tòng đang từ phía phải tiến vào nhà nguyện. Cây thánh giá ở xa xa, phía sau hàng cau chính là nơi sẽ an táng vị tử đạo.
--------
[67] Ngày hành hình cha Bonnard tại Nam Định, giáo dân kéo tới rất đông. Các quan đã đưa khoảng 500 lính áp giải và phải chuyển nơi hành hình ra bãi Đan Thủy, cách thành Nam Định khoảng một dặm rưỡi.
[68] Cuốn La salle des Martyrs du séminaire des Missions-étrangères do hội MEP ấn hành năm 1865, trang 346 cho biết vì các quan đột ngột thay đổi pháp trường nên chỉ có khoảng vài trăm tín hữu đến kịp để chứng kiến vụ hành quyết.
[69] Cuốn sđd, trang 347-348 kể lại rằng theo thông lệ, xác tử tội được chôn cất tại nơi hành hình, nhưng vì không muốn để cho các tín hữu tôn kính vị tử đạo, các quan đã cho hốt đất thấm máu, đem xác và đầu thánh nhân ra hai thuyền lớn để ném xuống sông. Xác thánh nhân được đặt trong một chiếc thuyền với nhiều lính đi theo, vị quan xuống chiếc thuyền thứ hai. Họ mang theo lương thực cho ba ngày, rồi căng buồm xuôi theo dòng sông. Một chiếc thuyền nhỏ chở theo một thầy phó tế và một thầy giảng đi lảng vảng phía trước để quan sát. Đêm đó, nhiều thuyền đánh cá của các tín hữu ở các vùng lân cận cũng đi theo. Khoảng tám chín giờ đêm, trời tối, hai chiếc thuyền lớn đảo qua lại vài vòng rồi dong buồm ngược dòng sông. Các tín hữu đã xác định được vị trí, một thanh niên lặn xuống lòng sông và chạm vào được thân thể vị tử đạo. Xác thánh nhân đã bị cột vào một thớt cối đá xay bột, đầu thánh nhân bị bỏ vào rọ và buộc vào tay.
[70] Lúc đó Vĩnh Trị cũng là trụ sở của giáo phận Tây Đàng Ngoài


                                                         (Nguồn : gxdaminh.net)