Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

14 BỨC TRANH TỬ ĐẠO VIỆT NAM TẠI HỘI THỪA SAI PARIS (1)



              Theo những tư liệu hiện có, có thể tạm kết luận rằng 14 bức họa này do các “họa sĩ vô danh” vẽ theo lệnh Đức Cha Retord Liêu vào thời gian ngài làm Đại diện tông toà giáo phận Tây Đàng Ngoài từ 1840 đến 1858.

1. Bức họa cuộc tử đạo của cha thánh Phêrô Lê Tùy,
ngày 11-10-1833 tại Nghệ An

Kim Ân
Bức hoạ cao 1,660 m, rộng 0,942 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng. Bức họa chủ yếu được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc sảo. Chúng tôi tạm chia bố cục bức hoạ làm bốn phần: bị bắt - bị giam cầm - giải ra pháp trường - hành quyết.
a/ Bị bắt: Góc phải, phần dưới của bức hoạ vẽ cảnh thánh nhân bị bắt. Trước tiên là hình ảnh một xóm nhỏ, phía trước xóm có cổng và con đường với dòng chữ Hán “Thanh Trác (? [1]) thôn” (lương dân thôn Thanh Trác đã bắt cha Phêrô Lê Tuỳ trên đường ngài đi kẻ liệt vào ngày 25-6-1833 [2]). Con đường trước thôn Thanh Trác hướng về phía một khu nhà có tường bao quanh. Liền phía trên khu nhà này có dòng chữ Hán “Thanh Chương huyện” [3]. Ở góc dưới cùng của bức hoạ là hình một chòi canh, gần đó có dòng chữ Hán “Sa Nam đồn”. Cổng huyện lị Thanh Chương có con đường dẫn tới bến đò. Bên kia sông là đoàn người áp giải cha Phêrô Lê Tùy, người đeo gông, có một viên quan dẫn đầu và một nhóm lính vác gươm và gậy đi theo, đoàn người tiến về phía một toà thành nhỏ, phía trên có dòng chữ Hán “Anh (?) Sơn phủ”. Chếch về phía trái, góc dưới có một số ngôi nhà, phía trên là dòng chữ Hán “Vân Đồn xã”.
b/ Bị giam: Phía trên cùng, góc phải là một toà thành với dòng chữ Hán “Nghệ An tỉnh”, hai cổng một bên là “Nam môn”, một bên là “chính Đông môn”. Trong thành, tại một căn nhà, cha Phêrô Lê Tùy đeo gong, nơi ngôi ngà có chữ “ngục thất”.
c/ Giải ra pháp trường: Phía ngoài toà thành là đoàn quân gươm giáo tuốt trần áp giải thánh nhân ra pháp trường, có một viên quan cưỡi voi chỉ huy đoàn quân, trên đầu viên quan là dòng chữ “giám sát quan”. Chếch về phía trái là dòng chữ Hán “tống chí luận hình” – dẫn ra pháp trường. Một tên lính đi trước thánh nhân, trên vai vác bản luận tội với hàng chữ “Minh Mạng thập tứ niên bát nguyệt …”
d/ Hành quyết: Cảnh hành quyết chiếm phần trung tâm trên bức hoạ và được vẽ khá sinh động. Một đội quân cầm giáo tạo thành vòng tròn quanh pháp trường, bên ngoài có đám dân chúng với tư thế và y phục khá đa dạng; viên quan cưỡi voi cũng ở vòng này, phía trên đầu ông ta có mấy chữ “giám trảm quan”. Ngay sát nơi hành quyết, một viên quan mặc áo the đang đứng, tay cầm cuộn giấy, phía trên trên đầu ông ta là chữ “thị sát”. Đứng đối diện viên quan này, viên trưởng nhóm đao phủ mặc áo đỏ, đeo gươm và cầm roi. Bốn viên đao phủ với tư thế khác nhau vây quanh thánh nhân. Một thanh gỗ ghi bản án được cắm ngay tại nơi hành hình với nội dung bằng chữ Hán ở mặt trước: “NHẤT ĐẲNG danh Tùy Lê Tùy quán Hà Nội tỉnh Thường Tín phủ Thanh Trì huyện Ninh Xá tổng Bằng Sở xã cai phạm hệ bản quốc nhân cửu tập dị đoan tự xưng đạo trưởng tiềm hướng dân gia tứ hành phiến dụ nã liệp (?) tra tần khâm án xử trứ trảm lập quyết dĩ giới”; mặt sau: “Minh Mạng thập tứ niên bát nguyệt nhị thập bát nhật – thìn thời.” [4]
Chếch về phía dưới là chiếc gông vừa được gỡ khỏi cổ thánh nhân. Sau một hồi chiêng lệnh, viên đao phủ chém đầu thánh nhân bằng một nhát gươm duy nhất, sau đó hắn tung cho đầu rơi xuống đất. Máu phun lênh láng trên chiếu và trên đất. Liền phía dưới chiếc gông, một đám người tay cầm giấy đang chạy về phía vị tử đạo vừa bị hành quyết để thấm máu. Xác thánh nhân nằm sấp trên chiếu, tay bị trói giặt ra phía sau.
Chếch về góc phải ngang với pháp trường có vài ba căn nhà, phía trên có ba chữ Hán. Hai chữ đầu đã quá mờ, chữ sau cùng hẳn là chữ xã. Theo chúng tôi, đây rất có thể là họ đạo Trang Mìa (Trang Nứa?), nơi thánh nhân được an táng [5].
-------
[1] Chúng tôi đặt dấu hỏi chấm ở những chỗ chúng tôi nghi ngờ vì chữ Hán trong bức hoạ đã quá mờ.
[2] Xem MEP, La salle des Martyrs du séminaire des Missions-étrangères, Charles Douniol, libraire-éditeur, Paris 1865, tr. 107.
[3] Sau khi bắt được cha Phêrô Lê Tùy, người thôn Thanh Trác đã giải ngài lên quan huyện.
[4] Bản án bằng chữ Hán được chúng tôi ghi theo phiến gỗ ghi bản án cắm tại pháp trường lúc hành hình thánh nhân, hiện được lưu giữ tại Phòng tử đạo thuộc Hội Thừa Sai Paris. Ở phần dưới của phiến gỗ, mặt trước, còn có những chữ Hán: “Thiên Chúa giáng sinh nhất thiên bát bách tâm thập tam niên – quí tị”.
[5] Xem MEP, sđd, tr. 109.
 2. Bức họa cuộc tử đạo của thánh Lm Marchand Du
ngày 30-11-1835 tại Huế
Kim Ân
Bức họa này cao 1,500 m, rộng 0,836 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng. Họa sĩ đã ít nhiều áp dụng nghệ thuật hội họa Tây phương với phong cách tả thực và luật cận - viễn. Hai cảnh nhỏ ở phía trên bức họa, theo chúng tôi, có thể tạm coi như một cách áp dụng luật đồng hiện. Chúng tôi tạm chia bố cục bức hoạ làm ba phần: thẩm vấn lần thứ hai [6] – hành quyết – kết thúc cuộc hành quyết.
Thẩm vấn lần thứ hai : Ở phía trên, góc trái của bức hoạ là cảnh cha Marchand Du bị thẩm vấn lần thứ hai tại Huế. Bị bắt tại Sài Gòn, bị đóng cũi và giải tới Huế ngày 15-10-1835, ngay ngày hôm sau, cha bị đem ra thẩm vấn lần thứ nhất, nhưng chưa bị hành hạ nhiều. Đêm 17-10-1835, do bị vu oan là tham gia cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi, cha bị thẩm vấn lần thứ hai và bị hành hạ bằng các loại kìm, kẹp nung đỏ. Bức hoạ cho ta thấy những vết thương ở tay và chân thánh nhân.
Hành quyết : Cảnh hành quyết ở trung tâm và chiếm phần lớn diện tích bức hoạ. Thánh nhân bị xử lăng trì, cũng còn gọi là bá đao hay tùng xẻo. Sáng 30-11-1835, thánh nhân bị dẫn đến họ đạo Thợ Đúc cùng với bốn người khác thuộc đảng Lê Văn Khôi cùng chịu án lăng trì với thánh nhân. Trên bức họa, xa xa là đội quân cầm giáo vây quanh nơi hành hình. Phía ngoài vòng vây quân lính là đám dân chúng, kẻ đứng người ngồi.
Ở trung tâm bức họa, thánh nhân bị trói vào cột [7], bốn đao phủ vây quanh thánh nhân, một người quì tay cầm rìu, ba người còn lại cầm dao, kìm, móc để cắt từng miếng thịt trên người thánh nhân. Vì đã trải qua những nhục hình khủng khiếp buổi sáng hôm đó – không dưới ba lần thẩm vấn, sau mỗi lần là năm chiếc kìm nung đỏ kẹp vào da thịt cho tới khi những chiếc kìm nguội hẳn – thánh nhân trút hơi thở sau khoảng sáu vết xẻo [8].
Kết thúc cuộc hành quyết: Phía trên, góc phải của bức hoả tả lại đoạn kết của cuộc hành quyết. Khi thánh nhân trút hơi thở, các đao phủ chặt đầu thánh nhân, tháo xác khỏi cột hành hình, đặt nằm sấp trên đất, rồi dùng rìu chẻ xác làm bốn mảnh.
--------
[5] La salle des Martyrs du séminaire des Missions-étrangères, tr. 109.
[6] Theo cuốn sđd, cha Marchand Du bị hành hạ bằng kìm nung đỏ tới hai lần. Lần đầu, trong cuộc thẩm vấn lần thứ hai, diễn ra vào ngày 17-10-1835. Lần thứ hai, trên đường ra pháp trường, ngày 30-11-1835. Dựa vào những miêu tả về cuộc tử đạo của thánh nhân, chúng tôi cũng đồng ý với các tác giả cuốn sđd rằng hình ảnh ở góc trên, phía trái của bức hoạ giới thiệu hình phạt chịu kẹp kìm nung đỏ trong lần thẩm vấn thứ hai. Tuy nhiên, chúng tôi không loại trừ khả năng tác giả bức hoạ muốn giới thiệu hình phạt kẹp kìm nung đỏ mà thánh nhân phải chịu trên đường ra pháp trường.
[7] Cuốn sđd, trang 133 kể rằng quân lính đóng năm giá hình chữ thập xuống đất theo một đường thẳng, cha Marchand du bị trói vào giá thứ hai, hai tay bị buộc vào thanh ngang.
[8] Xem MEP, sđd, tr. 125-135.
3. Bức họa cuộc tử đạo của cha Jean-Charles Cornay Tân
Ngày 20-09-1837 tại Sơn Tây
Kim Ân
Bức họa cao 1,660 m, rộng 1,213 m. Ngoài một số chi tiết phụ, bức họa hầu như chỉ miêu tả cuộc hành quyết theo góc nhìn phi điểu. Bức họa cũng được vẽ theo luật cường điệu với nhiều vòng tròn khác nhau, càng gần trung tâm, các chi tiết càng được vẽ lớn và kĩ lưỡng hơn. Chúng tôi tạm chia bố cục bức họa làm hai phần: những chi tiết phụ – cảnh hành quyết.
Những chi tiết phụ: Ở phía dưới, góc trái bức họa là mô hình một tòa thành với dòng chữ Hán “Sơn Tây tỉnh” (thánh nhân đã bị giam giữ tại tòa thành này cùng với ba thày giảng). Pháp trường diễn ra vụ hành quyết thánh nhân cũng ở gần tòa thành này. Ở những góc còn lại của bức họa, có những đám dân chúng đứng hoặc ngồi chứng kiến vụ hành quyết [9]. Bên trong đám dân chúng là đội quân cầm giáo đứng vòng quanh nơi hành hình. Viên quan giám trảm cưỡi ngựa có lọng che, đang cầm loa cũng đứng ở vòng này.
Cảnh hành quyết: Cuộc hành quyết được miêu tả khá chi tiết. Góc trái là chiếc cũi [10], phía bên phải chiếc cũi là hai viên quan đang cầm bản án trong tay, có vẻ như họ đang đọc bản án. Bản án này cũng được viết trên một thanh gỗ sơn vôi cắm ngay tại nơi hành hình, như chúng ta thấy trong bức họa [11]. Tiếp theo về phía bên phải là xiềng xích [12], búa tháo xiềng, và vài chiếc cọc (những chiếc cọc vốn được đóng xuống nền đất để cột chặt chân tay tử tội) [13].
Thân thể thánh nhân nằm sấp [14] và được đặt trên một chiếc chiếu điều, cũng chính là chiếc chiếu trải chân bàn thờ đã theo thánh nhân suốt những ngày bị giam giữ [15], và vừa bị sáu viên đao phủ (ba viên dùng gươm, hai viên dùng búa nhỏ, một viên dùng búa lớn) chặt ra từng mảnh. Hai chân và hai tay bị chặt ở các khớp gối. Viên đao phủ vừa chặt đầu thánh nhân xách đầu thánh nhân bằng tay phải - chiếc mũ sọ màu đen (calotte) mà thánh nhân đã đội trong cuộc hành hình vừa văng ra khỏi đầu - tay trái hắn đưa lưỡi gươm đầy máu lên miệng và dùng lưỡi liếm máu. Viên đao phủ đứng liền bên hắn đang nghiêng người moi gan thánh nhân để ăn [16], dưới chân hắn là hai chiếc cọc và sợi dây đã dùng để giữ chặt đầu thánh nhân ở vị trí hai bên thái dương [17]. Những viên đao phủ khác vẫn đang xẻ xác thánh nhân, một phần áo vẫn còn cột vào tay thánh nhân. Một chi tiết đặc biệt trong cuộc hành quyết này: viên quan giám trảm đã không theo trình tự thông thường của một vụ xử lăng trì, sau tiếng chiêng đầu tiên, ông đã ra lệnh cho đao phủ chặt đầu thánh nhân trước, sau đó mới cắt các khớp tay và khớp chân [18]. Viên đao phủ chính đã chặt đầu thánh nhân bằng một nhát gươm duy nhất.
----
[9] Theo chúng tôi, trong đám dân chúng đứng ở vòng ngoài hẳn phải có vị thầy thuốc, một viên chức cấp thấp người Công giáo, vị nữ tu và một chị đầy tớ, những người đã thu nhặt các phần thân thể và thấm máu thánh nhân sau vụ hành quyết như cuốn sđd thuật lại ở trang 144-145.
[10] Theo lời của chính thánh nhân trong cuốn sđd ở trang 138, thì đây là chiếc cũi gỗ chiều dài chừng năm bộ, chiều rộng và chiều cao chừng bốn bộ, bốn chân cao sáu thốn. Đây là chiếc cũi thứ hai dùng để nhốt thánh nhân. Chiếc cũi thứ nhất, dùng để nhốt thánh nhân khi thánh nhân bị bắt ngày 20-6-1837 tại làng Bau-Nô (tức Bầu Nọ), có bốn thanh gỗ ở bốn góc, phần còn lại bằng tre.
[11] Nguyên văn bản án được dịch ra tiếng Pháp ở trang 142, cuốn sđd như sau: “Le nommé Tan, dont le vrai nom est Cao-Lang-Ni (Cornay) du royaume de Fu-Lang-sa (France) et de la ville de Loudun, est coupable comme chef de fausse secte, déguisé dans ce royaume, et comme chef de révolte. L’édit souverain ordonne qu’il soit haché en morceau, et que sa tête, après avoir été exposé durant trois jours, soit jetée dans le fleuve. Que cette sentence exemplaire fasse impression partout. – Fin de l’inscription”. “Le 21 de la 8e lune de la 18e année du règne de Minh-Mênh”. Trên phiến gỗ ghi bản án được dựng tại nơi hành hình, chúng tôi đọc được dòng chữ Hán "Danh Tân … Minh Mạng thập bát niên bát nguyệt nhị thập tam nhật”, nghĩa là ngày 23 tháng 8 năm Minh Mạng thứ 18.
[12] Cũng theo cuốn sđd, trang 138, thì đây là một chiếc xiềng hình tam giác, gồm một khong sắt ở cổ và hai khong sắt ở hai chân. Các khong này được tán đinh với sợi xích nối từ cổ xuống tới thắt lưng, rồi phân đôi thành hai sợi nối với hai khong ở đùi.
[13] Xem MEP, sđd, tr. 143.
[14] Xem MEP, sđd, tr. 143.
[15] Xem MEP, sđd, tr. 143.
[16] Tác giả cuốn sđd, ở trang 28 ghi rằng: “… son voisin, penché sur le corps, coupe un morceau du cœur pour s’en régaler dans un horrible festin”. Chúng tôi đồng quan điểm với tác giả Launay Andrien trong cuốn Les Cinquante-deux serviteurs de Dieu in tại Paris năm 1893, tập I, trang 243: “Un satellite coupe en morceau le foie du vénérable Cornay afin de le manger”, nghĩa là viên đao phủ đang moi gan chứ không phải moi tim. Cuốn La salle des Martyrs do hội MEP ấn hành năm 1988, ở trang 5 cho biết thêm rằng vì ngưỡng mộ lòng can đảm của thánh nhân, mấy viên đao phủ đã ăn gan và liếm máu thánh nhân, vì họ tin rằng nhờ thế họ sẽ có được lòng can đảm của người chịu tử tội.
[17] Xem MEP, La salle des Martyrs du séminaire des Missions-étrangères, Charles Douniol, libraire-éditeur, Paris 1865, tr. 143.
[18] Xem MEP, sđd, tr. 143; xem thêm MEP, La salle des Martyrs, 1988, tr. 5.
 4. Bức họa cuộc tử đạo của thầy Phanxicô Xaviê Nguyễn Cần
ngày 20-11-1837 tại Hà Nội
Kim Ân
Bức họa cao 1,675 m, rộng 1,196 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng và được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này kém sắc sảo so với các bức họa khác. Chúng tôi tạm chia bố cục bức họa làm bốn phần: thẩm vấn 1 – thẩm vấn 2 – dẫn ra pháp trường – cảnh hành quyết.
Thẩm vấn 1: Ở góc trái, phía dưới, bức họa giới thiệu cảnh một tội nhân đeo gông và bị căng ra trước thềm một căn nhà. Một người mặc áo xanh, quần điều, đang ngồi trong nhà, xung quanh có những nhóm người đang đứng hoặc ngồi. Phía trên, góc phải của căn nhà là hai chữ Hán “huyện nha”. Ở đây, chúng tôi thiển nghĩ cần giải thích thêm rằng trên đường chuyển thư của Đức Cha Retord Liêu cho cha Tuần, ngày 19-04-1836, thầy Nguyễn Cần bị bắt tại làng Ke-Vac (Kẻ Vác), bị đánh đòn rồi vài ngày sau bị giải tới huyện đường Thanh Trì. Hẳn phần này của bức họa này đã vẽ cảnh diễn ra tại huyện nha Thanh Trì.
Thẩm vấn 2: Phần này chiếm gần trọn nửa trên của bức họa với một tòa thành lớn, có kì đài cao. Ở tường thành, ngay phía chân kì đài là dòng chữ Hán “Hà Nội tỉnh thành”, cổng bên trái có chữ “đông môn” và cổng bên phải có chữ “bắc môn”. Phía trong tòa thành có hai khu nhà với tường bao quanh. Phía trên khu nhà bên phải có dòng chữ “tổng đốc quan”. Sau khi bị bắt và giải tới Thanh Trì, thánh nhân bị giải tới Hà Nội và bị điệu ra trước mặt quan tổng đốc, bị đánh đòn và ép buộc bước qua thập giá. Trong bức họa, trước mặt quan tổng đốc, hai tên lính đang cầm hai đầu gông để kéo thánh nhân bước qua thập giá. Thánh nhân co chân lên để không chạm chân lên biểu tượng thiêng thánh. Ở cổng khu nhà bên trái có hai chữ “ngục môn” – cổng nhà ngục, phía trong là cảnh thánh nhân đeo gông, bị cùm chân, với nhiều tù nhân khác xung quanh [19].
Dẫn ra pháp trường: Ngày 20-11-1837, một đội quân đông đảo áp giải [20] thánh nhân qua cửa bắc đi ra pháp trường Ô Cầu Giấy. Bức họa giới thiệu một phần đoàn người đi ra pháp trường. Thánh nhân đeo gông, mặc áo đỏ, tay chỉ lên trời. Khi ra khỏi cổng thành, đoàn người dừng lại để chờ sáu tử tội khác cùng bị hành quyết hôm đó. Thánh nhân đã tận dụng cơ hội này để giảng, trong khoảng một giờ, một bài ứng khẩu cho đám quan lại, quân lính và đông đảo dân chúng đi theo về sự chết. Một tên lính đứng phía trước thánh nhân vác một phiến gỗ có những chữ Hán “nhất bài Nguyễn Tiến Truật …” [21].
Cảnh hành quyết: Cảnh hành quyết được vẽ theo góc nhìn phi điểu. Một đội quân cầm giáo đứng vòng quanh pháp trường. Phía góc trái pháp trường là ba viên quan cưỡi voi, một viên quan mặc áo đỏ đang quát loa. Xa xa, những đám dân chúng đang túm tụm đứng xem cuộc xử án. Bên trong vòng quân cầm giáo, một người phụ nữ đứng chắp tay quay về phía viên quan cầm loa, phía đầu bà ta có những chữ “… hồi mai tang thổ”. Gần nơi hành quyết, cách người phụ nữ đó không xa là một người phụ nữ khác đang bưng khay. Bà ta và một nhóm giáo dân đã chuẩn bị một bữa tiệc với chút rượu cho thánh nhân ăn trước khi chịu hành hình. Gần chỗ bà ta đứng là bốn phụ nữ, kẻ đứng người ngồi, một bà đang cầm trong tay xấp vải [22].
Trong số sáu tử tội cùng chịu án với thánh nhân, bốn người đã bị chém đầu, một người khác đang bị tên đao phủ kề gươm vào cổ, một người vẫn còn quì giữa pháp trường. Gần nơi hành quyết thánh nhân, gông và xiềng vừa được gỡ ra. Thánh nhân vừa bị xử giảo, tức xiết cổ. Hai toán lính hai bên vẫn đang cầm sợi xích tròng qua cổ thánh nhân, một tên lính mặc áo xanh đang nghiêng người về phía thánh nhân [23]. Một tên đao phủ đang dùng gươm cắt cổ thánh nhân [24]. Bản án thánh nhân cũng được ghi trên một phiến gỗ sơn vôi và cắm gần bên nơi hành quyết. Nội dung bản án bằng chữ Hán như sau: “Nguyễn Tiến Truật quán Thường Tín phủ Sơn Miêng xã cai phạm bản [quốc?] tòng Gia Tô đạo hựu bất khẳng khoá quá thập tự thẩm án xử cấp lập quyết tư bài. Minh Mạng thập bát niên cửu nguyệt thập bát nhật.” [25]
------
[17] Xem MEP, La salle des Martyrs du séminaire des Missions-étrangères, Charles Douniol, libraire-éditeur, Paris 1865, tr. 143.
[18] Xem MEP, sđd, tr. 143; xem thêm MEP, La salle des Martyrs, 1988, tr. 5.
[19] Cuốn La salle des Martyrs du séminaire des Missions-étrangères do hội MEP ấn hành năm 1865, ở trang 20 cho biết thêm rằng quan tổng đốc đã giam chung thánh nhân với những tên tù đại phạm. Cuốn sđd ở trang 148 trích lại lời thánh nhân rằng: “Tôi bị giam chung với mười lăm tên vô lại ngoại giáo mà lời lẽ và hành động thật đáng ghê tởm”.
[20] Cuốn sđd, trang 155 thuật lại rằng đoàn áp giải gồm năm viên quan cưỡi voi dẫn đầu, sau đó là hai viên sĩ quan cưỡi ngựa, ba trăm lính mặc áo điều, gươm tuốt trần.
[21] Nguyễn Tiến Truật là tên chính thức của thánh nhân.
[22] Cuốn sđd, trang 156 thuật lại rằng vào lúc hành hình thánh nhân, một nhóm giáo dân, đàn ông và đàn bà đã chạy xuyên qua hàng rào quân lính
[23] Cuốn sđd, trang 156 cho biết toán lính gồm mười hai tên, chia thành hai nhóm, đứng bên phải và bên trái thánh nhân. Cuốn sách cũng nói rằng khi giờ hành quyết điểm, có hai tên lính đã tới ghé vào tai thánh nhân thầm thì điều gì đó.
[24] Cuốn sđd, ở trang 20-21 và 157 cho biết rằng theo thông lệ, các tên lính dung lửa đốt gan bàn nhân các tử tội, và vì có tin đồn rằng các Kitô hữu có thể phục sinh sau ba ngày, một tên đao phủ đã dùng gươm cắt cổ thánh nhân.
[25] Chúng tôi xin tạm dịch bản án như sau: “Nguyễn Tiến Truật quê tại xã Sơn Miêng, phủ Thường Tín, người bản quốc phạm tội theo đạo Gia Tô lại không chịu bước qua thập tự, xét án xử lập tức. Ngày mười tám tháng chín năm Minh Mạng thứ mười tám”.

5. Bức họa cuộc bắt bớ và giải thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự
cha Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm Đức cha Pierre Dumoulin Borie Cao 

tới Quảng Bình, ngày 27-07 và 31-07-1838
Kim Ân
Bức họa cao 1,709 m, rộng 0,890 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng và được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc sảo. Chúng tôi tạm chia bố cục bức họa làm ba phần: lùng sục và bắt bớ – giải đi – giam cầm và thẩm vấn.
Lùng sục và bắt bớ : Phía dưới bức họa là hình ảnh vài ngôi làng, có những nhóm quân lính và hai người đang quì. Nơi vài ngôi nhà ở góc trái, phía dưới, có chữ “Cồn Giờ” [26]. Ở phía dưới của vài ngôi nhà có mấy người đứng và quì có hai chữ “Lệ Sơn”. Hai chữ phía trên đầu hai người đang quì là “oa gia” [27]. Phía dưới, góc phải là hai chữ “đại hải”. Chúng tôi xin mạo muội giải thích thêm ở đây. Năm 1838, vua Minh Mạng ra lệnh lùng bắt cha Candalh Kim, giám đốc chủng viện Di Loan. Ngày 02-07 năm đó, quân lính bắt được cha Khoa và hai thầy giảng Đức và Khang. Khi bị tra tấn, thầy Khang đã khai rằng có một thừa sai Âu Châu ở vùng Bố Chính. Quân lính lập tức đi bố ráp vùng này, đặc biệt vùng ven biển. Ngày 27-7, họ tìm được một số đồ vật của cha Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm và bắt đầu tra khảo chủ nhà. Sáng hôm sau, một người tên là Yên đã đồng ý dẫn quân lính đến nơi cha Điểm ẩn trốn, nơi các đụn cát gần làng Đan Sa [28].
Trong bức họa, cha Điểm đầu tóc bạc phơ - lúc đó ngài đã 74 tuổi - ngồi trong một lùm cây, bên cạnh có nải chuối. Quân lính cầm gậy, một đám đang núp, hai tên tiến về phía cha Điểm, gần đó là một người đang chạy, phía dưới có hai chữ “Sa Sơn”. Bắt được cha Điểm, quan quân chưa hài lòng và họ quyết tâm lùng sục để tìm ra vị thừa sai Âu Châu. Trên đường truy tìm, họ bắt được một tín hữu tên là Thanh và nạt nộ anh. Anh này khai ra là có nhìn thấy một người vóc dáng rất lớn ở gần bờ biển. Quan quân tiếp tục lùng sục suốt đêm đó. Khi cha Borie Cao, lúc đó đang trốn trong một bụi cây, nghe tiếng quan quân tới gần, ngài biết đã bị lộ nên ra nộp mình. Giữa đêm tối, quan quân thấy một người cao lớn tiến ra nên hoảng sợ. Một tên lính ra lệnh cho vị thừa sai quì xuống. Tuy nhiên, để trấn át nỗi sợ, hắn vẫn vung gậy đánh vào lưng ngài. Đó là chuyện diễn ra sáng ngày 31-07-1838. Trong bức họa, quân lính cầm gậy đang từ nhiều hướng tiến về phía cha Borie Cao, một tên đang vung gậy. Phía sau mấy tên lính là những chữ “Trường Sa Sơn”.
Giải đi: Phần giữa bức họa trình bày cảnh giải ba vị chứng nhân của Chúa Giêsu đi về tỉnh lị Quảng Bình. Phía sau lưng đoàn người là vài căn nhà có tường bao quanh với ba chữ “Quảng Trạch huyện”. Đoàn quân áp giải mang gươm giáo. Ba tù nhân mang gông. Cha Borie cao đi đầu, sau đó là cha Điểm, cuối cùng là thầy Tự (người giúp việc cha Borie Cao, thầy đã tự tới nộp mình lúc cha Cao bị bắt). Chỉ huy đoàn áp giải là một viên quan cưỡi ngựa mặc áo xanh. Phía trên đầu đoàn người áp giải có hai chữ “giải tỉnh”. Trước mặt đoàn người là một dòng sông, ở mép bức họa có chữ “đò Gianh”.
Giam cầm và thẩm vấn: Phần trên bức họa là một tòa thành, cổng bên phải có chữ “chính đông môn”, cổng bên trái có chữ “chính nam môn”. Bên trong tòa thành là cảnh công đường. Hai viên quan áo đỏ và áo xanh ngồi chính giữa, có hai nhóm quan lại ngồi hai bên tả hữu. Trước thềm công đường, hai hàng lính cầm giáo đứng hai bên. Giữa sân công đường, thầy Tự bị căng ngang ra bằng hai chiếc cọc đóng xuống đất. Thầy đang bị hai tên lính đánh đòn và mông thầy đầy vết máu. Cha Cao và cha Điểm đeo gông đứng gần đó [29]. Nóc công đường có dòng chữ “Quảng Bình tỉnh tra”. Liền bên công đường là một ngôi nhà, phía trong có năm người đeo gông. Phía trên căn nhà có chữ “ngục thất”. Tại ngục thất Quảng Bình, ba vị chứng nhân của Chúa còn gặp hai vị chứng nhân khác là cha Phêrô Võ Đăng Khoa và ông lang Năm, tức Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh.
-------
[26] Chữ thứ hai ở đây () cũng còn có thể đọc là từ, chờ, chừa, thờ.
[27] Oa gia có nghĩa là gia đình chứa chấp. Tội oa gia trong thời bách hại đạo Công giáo ở Việt Nam là tội của gia đình chứa chấp các vị thừa sai hoặc các linh mục bản quốc.
[28] Ở mép trái của bức họa, hơi chếch về phía trên đoàn người đang giải ba tù nhân, có vài ba ngôi nhà với ba chữ “Đan Sa xã".
[29] Cuốn sđd, ở trang 209-210 cho biết rằng ngay hôm bị giải tới tỉnh, cha Cao đã bị đánh 30 roi.
 6. Bức họa cuộc tử đạo 
của ông Micae Nguyễn Huy Mĩ, Antôn Nguyễn Đích và cha Giacôbê Đỗ Mai Năm,
ngày 12-08-1838 tại Nam Định
Kim Ân
Đây là bức họa lớn nhất, chiều cao 1,804 m, chiều rộng 1,965 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng và được vẽ theo nhiều thủ pháp nghệ thuật dân gian khác nhau như luật đồng hiện, luật tẩu mã và luật phi điểu. Nét vẽ trong bức họa này không sắc sảo cho lắm. Chúng tôi tạm chia bố cục bức họa làm bốn phần: bắt bớ và giải đi – giam cầm và thẩm vấn – dẫn ra pháp trường và hành quyết – mai táng.
Bắt bớ và giải đi: Cảnh bị bắt và giải đi chiếm gần trọn phần dưới của bức họa. Ở góc trái, bức họa giới thiệu cảnh quân lính cầm giáo bao vây một khu dân cư [30]. Phía trước căn nhà trong bức họa có bốn chữ “Vĩnh Trị dân cư”. Quan quân đã bắt được cha Giacôbê Đỗ Mai Năm tại nhà ông Antôn Nguyễn Đích (ông trùm Đích). Quan quân cũng bắt luôn ông Micae Nguyễn Huy Mĩ là con rể ông trùm Đích, cũng là lí trưởng làng Vĩnh Trị. Bức họa cho ta thấy cảnh ba vị bị trói và điệu ra đình làng Vĩnh Trị, tại đây, ông lí Mĩ bị căng ra sân đánh đòn. Đứng gần ông lí Mĩ là ông trùm Đích. Cha Năm đứng phía sau ông trùm Đích. Cách đình làng không xa về phía bên phải, một tên lính đang đi lùng sục, cướp bóc của cải. Bên ngoài vòng vây quân lính, chếch về phía trái, một đám người đang mang vác đồ đạc đưa lên thuyền bên bờ sông Đáy.
Chếch về phía trên một chút, ba vị mang gông bị quân lính áp giải lên huyện, một viên quan nằm trên cáng ở phía đầu đoàn người. Trước mặt họ là khu nhà có tường bao quanh với hai chữ “huyện nha”. Dưới chân đoàn người là dòng chữ “kí giao huyện sở”. Phía sau đoàn người là ngọn núi nhỏ với hai chữ “Nhôi sơn”.
Ở phía dưới, góc phải của bức họa, quân lính áp giải ba người mang gông, trong cáng không có người vì viên quan mặc áo xanh đã ra khỏi cáng, trước mặt viên quan là bến đò và dòng chữ “huyện quan giao tù tại tuần phủ quan”. Bên kia sông là vài ngôi nhà với những chữ “Phù Sa đồn”. Chếch lên phía trên một chút, một viên quan mặc áo xanh, quần đỏ và đoàn lính áp giải ba người mang gông, trên đầu đoàn người có hai chữ Hán “giải tỉnh”.
Giam cầm và thẩm vấn: Phần trên, gần trọn góc bên phải là một tòa thành, phía trong có chữ “Nam Định tỉnh thành”. Ba cổng trong bức họa được vẽ theo lối tẩu mã. Cổng phía dưới có chữ “chính nam môn”, cổng bên trái có chữ “chính tây môn”, cổng phía trên có chữ “chính bắc môn”. Góc tây nam tòa thành là cảnh công đường. Quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh mặc áo xanh ngồi giữa, có tả hữu hai bên. Ba tù nhân đeo gông đang ở sân công đường, hai hành lính vác gươm tuốt trần đứng hai bên. Các quan muốn ép ba vị bước qua thập giá. Ông lí Mĩ chịu thử thách đầu tiên [31]. Hai tên lính đang cầm ai đầu gông để ép ông bước qua thập giá. Ông co chân lên để không chạm vào biểu tượng thiêng thánh đó. Một tên lính đang vung roi đánh ông, một tên khác cầm chân ông kéo ra, nhưng không thể làm ông bước qua thập giá. Phía sau công đường là một ngôi điện [32]. Chếch về phía đông bắc của tòa thành là cảnh ba người ngồi trong một căn nhà với hai chữ “ngục thất”.
Dẫn ra pháp trường và hành quyết: Ở góc phải, phía trên của bức họa là cảnh ba vị chứng nhân của Chúa bị điệu ra pháp trường. Ba vị đeo gông, cha Năm đi đầu, có đoàn quân lính vác giáo áp giải. Phía trước mỗi vị, một tên lính vác phiến gỗ ghi bản án [33].
Phía trước mặt đoàn người, cảnh hành quyết chiếm trọng góc trái, phần trên của bức họa, với nhiều chi tiết khá thú vị. Một đội quân đông đảo cầm giáo đứng vòng quanh pháp trường. Quan tổng đốc và hai viên quan khác cưỡi trên ba thớt voi để chủ trì cuộc xử. Ba vị tử đạo quì trên ba manh chiếu, mấy tên lính đang tháo gông ra khỏi cổ ông trùm Đích. Một tên đao phủ đang vung gươm chém ông lí Mĩ [34]. Chiếc gông vừa được tháo khỏi cổ ông bị ném trên nền đất gần đó. Phần cha Năm, gông xiềng vừa được tháo khỏi cổ cha. Viên đao phủ đang chuẩn bị hành hình. Một tên lính đeo gươm đứng phía sau cầm một cây sào sẽ dùng để bêu đầu cha ba ngày như án lệnh. Gần chỗ hành quyết cha là ba chữ “luận hình xứ”. Phía bên trái pháp trường, một đám dân chúng chạy qua hàng rào quân lính để vào thấm máu các vị tử đạo, ba tên lính dùng roi và sống gươm đánh đập họ, nhưng họ vẫn xông vào. Ở phía trên, góc trái bức họa, một người đang ngồi với xấp vải dùng để tẩm liệm ba vị tử đạo.
Mai táng: Trở lại phía dưới của bức họa, một đoàn người đông đảo [35] cầm đuốc rước xác ba vị tử đạo về an táng tại làng Vĩnh Trị. Phía trước xác mỗi vị là phiến gỗ ghi bản án đã cắm tại nơi hành quyết. Trên phiến gỗ đầu tiên có chữ “nhất bài Mai Ngũ”, phiến thứ hai có chữ “nhất bài Nguyễn Văn Khiêm” [36], phiến thứ ba có chữ “nhất bài Nguyễn Huy Mĩ”. Ở gần đầu đoàn rước có dòng chữ “tương [37] hồi mai táng”. Cũng ở gần đầu đoàn rước, chếch về phía dưới, thân nhân các vị tử đạo mặc đồ tang ra đón.
-----
[30] Cuốn sđd, ở trang 23 và trang 176 kể rằng ngày 02-07-1838, ba trăm quân kéo tới vây làng Vĩnh Trị, trụ sở địa phận Tây Đàng Ngoài lúc đó.
[31] Cuốn sđd, trang 180 cho biết rằng trong khoảng 40 ngày bị giam cầm, ông lí Mĩ đã nhiều lần bị đánh đòn. Ông cũng tình nguyện chịu đòn thay cho bố vợ đã già yếu. Trong khoảng thời gian đó, ông đã bị đánh tổng cộng khoảng 500 roi.
[32] Trong ngôi điện có ba chữ Hán. Chúng tôi chỉ đọc được chữ đầu là kính và chữ cuối là điện. Theo sđd, trang 24 thì đây là kính thiên điện. Nhưng chữ ở giữa không thể là chữ thiên.
[33] Cuốn sđd ở trang 186 có dịch lại nguyên văn bản án kết tội cha Năm ra Pháp ngữ như sau: “Le sieur Nam, natif de Dông-Biên est un Annamite qui s’est laissé séduire par un Européen qu’ils appellent l’Evêque Jacques. Il est si profondément imbu de sa mauvaise doctrine qu’il a été impossible de lui faire comprendre son erreur. Arrêté et mis à la question, il a refusé de fouler la croix aux pieds; il est manifeste que parmi les sectateurs des mauvaises doctrines, c’est un des plus coupables. En conséquence, il est condamné à avoir la tête tranchée et exposée au haut d’un poteau pour l’instruction publique”.
[34] Sđd, trang 187 kể rằng tên đao phủ nói nếu ông cho hắn năm quan tiền hắn sẽ chém một nhát mát mẻ. Ông trả lời: "Năm quan tiền để làm phúc cho kẻ khó, chẳng có tiền cho chú mình đâu, muốn băm vằm thế nào thì mặc". Tên đao phủ bực mình chém ông tới năm nhát, đầu ông mới lìa cổ. Vài tài liệu khác cũng cho biết rằng ông lí Mĩ đã xin quan xử cha Năm và ông trùm Đích trước, ông xin chịu chém sau cùng. Các quan đã đồng ý cho làm đúng như thế.
[35] Sđd, trang 188 nói rừng đoàn rước đông tới hàng trăm người.
[36] Nguyễn Văn Khiêm là tên chính thức của ông trùm Đích.
 7. Bức họa cuộc bắt bớ và giải cha Phaolô Phạm Khắc Khoan,
thầy Gioan B. Đinh Văn Thanh và thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu 
tới thành Ninh Bình, ngày 24-08-1838 [38]
Kim Ân
Bức họa cao 1,470 m, rộng 0,800 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng và được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc sảo. Chúng tôi tạm chia bố cục bức họa làm ba phần: bị bắt – giải đi – giam cầm và thẩm vấn.
Bị bắt: Bức họa không vẽ cảnh ba thánh nhân bị bắt. Tuy nhiên, ở phía dưới, góc phải, bức họa giới thiệu cảnh một ngôi làng. Ngày 24-08-1838, một lương dân tố cáo với quan, và cha Phaolô Phạm Khắc Khoan đã bị bắt tại làng Đông Biên cùng với hai thầy giảng giúp việc là thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và thầy Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh.
Giải đi: Buổi tối ngày bị bắt, ba thánh nhân bị giải đi Ninh Bình. Cảnh giải đi nằm ở giữa bức họa. Một đám đông chức việc và lương dân cầm gậy và đuốc áp giải ba thánh nhân, phía cuối đoàn rước là một viên quan cưỡi ngựa. Cha Phaolô Phạm Khắc Khoan đã 66 tuổi, không thể tự đi được nên nằm trên cáng, phía sau là thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và thầy Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh mang gông trên cổ. Ở phía dưới đoàn người, chếch về bên phải là một nhóm người mang theo gậy gộc, kẻ nằm người ngồi. Đây là nhóm giáo dân định tới giải cứu ba vị, nhưng khi thấy không thể giải cứu được vì đoàn người đã lên đường đi về tỉnh lị Ninh Bình, nhóm giáo dân chán nản ngồi xuống hoặc nằm ngay bên vệ đường.
Giam cầm và thẩm vấn: Nửa trên bức họa là một tòa thành. Cửa thành bên phải có các chữ “chính đông môn”, cửa bên trái có chữ “chính nam môn”. Bên trong tòa thành, phần trung tâm là cảnh công đường, quan tổng trấn mặc áo xanh ngồi trong công đường có hai ban tả hữu hai bên. Trước sân công đường là hai hàng lính, ở giữa là ba thánh nhân đeo gông và mang xiềng. Một viên quan đang cầm tay thầy Hiếu để kéo thầy bước qua thập giá. Cha Khoan đứng liền sau thầy Hiếu, phía sau ngài là thầy Thanh [39]. Chếch về góc phải, bức họa giới thiệu ba thánh nhân mang xiềng gông trong một ngôi nhà, đó là ngục thất tỉnh lị Ninh Bình. Ba vị đã bị giam cầm tại đó gần 20 tháng, trước khi bị đem đi xử chém vào ngày 28-04-1840.
[37] Chữ  cũng được đọc là tướng, khi đó chữ này có nghĩa là viên tướng. Cũng cần nói thêm rằng trên bức họa này còn khá nhiều chữ Hán, nhưng một phần vì chữ đã mờ, một phần vì tác giả dường như vẽ chữ, nên chúng tôi không thể đọc được hết.
[38] Ở phía dưới bản chụp bức họa này có dòng chữ Pháp ngữ: “Arrestation des Sts. Paul Khoan, Pierre Hieu et J.-B. Thanh. Ninh Binh 1837". Tuy nhiên, chúng tôi dựa vào cuốn La salle des Martyrs du séminaire des Missions-étrangères do hội MEP ấn hành năm 1865, ở trang 253, để xác định ngày các thánh nhân bị bắt.
[39] Cuốn sđd ở trang 253-254 cho biết rằng ngay khi tới Ninh Bình, các vị đã bị thẩm vấn và đánh đòn, bị dùng nhiều thủ đoạn dọa dẫm và mua chuộc, nhưng các vị đã cương quyết trung thành với niềm tin vào Thiên Chúa.


                                                                                            (Nguồn : gxdaminh.net)