Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

NGƯỜI DO THÁI - SỰ THẦN KỲ CỦA MỘT DÂN TỘC NHỎ BÉ



Một dân tộc nhỏ nhưng tác động đến rất lớn toàn bộ văn minh của trái đất. Từ cuộc sống, khoa học, làm giàu… đến tư tưởng mọi thứ đều có sự tác động của người Do Thái.

Không phải truyền đạo, cũng không phải học giả của quan điểm này khác, nhưng chúng ta cần nhìn vào sự thật về dân tộc DO THÁI trước kia và hôm nay. BÍ QUYẾT để trở thành THÔNG MINH nhất thế giới là họ đã vâng theo Lời Chúa Trời của họ. Lời đó đã được chép trong Thánh Kinh Cựu ước trong sách Phục Truyền Luật Lệ Ký chương 4 cầu 6 như sau:

"Vậy, các ngươi phải giữ làm theo các mạng lịnh và luật lệ nầy; vì ấy là sự khôn ngoan và sự thông sáng của các ngươi trước mặt các dân tộc; họ nghe nói về các luật lệ nầy, sẽ nói rằng: Dân nầy là một dân khôn ngoan và thông sáng không hai!"

*******

Văn minh Do Thái không để lại những kiến trúc nổi tiếng như Kim tự tháp, điện Pantheon hoặc Vạn lý Trường thành, nhưng nó lưu lại mãi mãi một di sản phi vật thể vô giá mà ít có nền văn minh nào có thể sánh được về tầm ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đối với văn minh toàn nhân loại.

Dường như là, mỗi khi bàn luận về sự thông minh có di truyền không, người ta đều nêu lên dẫn chứng về giải Nobel và người Do Thái. Và cũng như một thông lệ, hàng năm sau khi công bố giải, người ta đều hỏi người Do Thái chiếm bao nhiêu phần trăm giải năm ấy. Và thực tế thì con số này không hề nhỏ.

Ví dụ chỉ sau khi vừa công bố 3 giải Nobel 2011, lập tức có một bài báo nhan đề “Bà mẹ Yiddeshe có thể tự hào: Năm trong bảy Nobel gia là người Do Thái”. Đó là: Ralph Steinman và Bruce Beutler, giải Nobel về Y học, Saul Pelmutter và Adam G. Ross - giải Nobel về Vật lý, Daniel Shechtman - giải Nobel về Hoá học.

Dân tộc Do Thái là một trong những dân tộc có nền văn hoá và lịch sử lâu đời nhất của nhân loại, ra đời cùng với thời kỳ văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà và văn minh Hy Lạp-La Mã thời cổ đại. Nhưng lịch sử bắt họ phải chịu một số phận không may mắn, bị các bộ tộc và các lãnh chúa khác xâm chiếm đất đai và xua đuổi dưới những lý do tôn giáo. Từ đó họ phải sống tha hương, từng nhóm kéo nhau đi khắp mọi nơi trên thế giới để duy trì sự sinh tồn, vượt qua những định mệnh nghiệt ngã của lịch sử.

Trên 2000 năm qua, đi đến đâu họ cũng tỏ ra là một dân tộc có sức sống dẻo dai, không bị đồng hoá và ý thức vươn lên mãnh liệt.Trong công việc họ cần cù, kiên trì và quyết tâm đạt những mục đích mình theo đuổi. Bởi vậy, gần như sống ở đâu họ cũng thành công.

Sự thành đạt và khôn ngoan của họ nhiều khi bị thành kiến và kỳ thị. Trong Thế chiến II, dưới chế độ phát xít, khi Hitler đề cao thuyết “người Đức là một dân tộc thượng đẳng”. Hitler rất sợ sự vượt trội của người Do Thái, nên dã bắt họ sống trong các trại tập trung, đày đoạ họ với ý đồ để họ chết dần chết mòn trong đó.

Người Do Thái đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực trí tuệ. Họ thường là những nhà khoa học lớn, những doanh nhân lỗi lạc, những nhà văn kiệt xuất, những nhà tư tưởng uyên bác, những chính trị gia tài giỏi…

Từ năm 1901, giải Nobel được thành lập và trở thành một giải thưởng uy tín nhất và danh giá nhất hành tinh, tôn vinh những người có đóng góp lớn nhất cho nhân loại, có những phát minh đột phá, những tác phẩm văn chương thấm đẫm tính nhân văn, những người có công lao kiến tạo một thế giới an bình hơn, tốt đẹp hơn. Người Do Thái lập tức trở thành một yếu tố quan trọng của giải, dù họ sống ở các nước khác nhau, mang quốc tịch khác nhau hoặc chính tại đất nước mới thành lập cách nay không lâu của họ là Israel.

Tính đến năm 2011, giải Nobel đã trao 108 lần (trừ 4 năm trong Thế chiến I và II không trao giải) cho trên 800 nhân vật và các tổ chức xã hội. Nếu tính tất cả các giải, ít nhất có 181 người Do Thái (thuần chủng, hoặc từ 1/2 đến 3/4 dòng máu Do Thái) được trao giải Nobel, chiếm 22% số nhân vật được coi là những trí tuệ hàng đầu của nhân loại.

Trong các giải Nobel qua hơn một thế kỷ, tỉ lệ số người Do Thái chiếm lĩnh các giải Nobel trong các lĩnh vực như sau:

- Hoá học: 32 người, chiếm tỷ lệ 21%- Kinh tế: 28 người, chiếm tỷ lệ 42%- Văn chương: 13 người, chiếm tỷ lệ 12%- Vật lý: 49 người, chiếm tỷ lệ 27%- Hoà bình: 9 người, chiếm tỷ lệ 8%.

Cần lưu ý rằng số người Do Thái trên Trái đất là 20 triệu (cả trong và ngoài nước) nghĩa là chưa đến 0,2% dân số thế giới. Như vậy, trong khi dân số thế giới là gần 8 tỷ với trên 800 giải Nobel, thì bình quân số giải trên đầu người của người Do Thái so với bình quân của thế giới cao hơn đến 11.950%. Song đó chỉ là so sánh cho vui thôi, chứ con số này không mấy ý nghĩa bởi kèm theo nó còn bao nhiêu điều kiện khác nữa. Người ta thường nói giải Nobel trong vài chục năm gần đây đổ dồn về Mỹ. Song ít ai để ý, trong những “giải Nobel mang thương hiệu Mỹ” thì người Mỹ gốc Do Thái chiếm một phần quan trọng.

Xin nêu một vài con số: Giải Nobel Hoá học của Mỹ có 27% là người gốc Do Thái, Nobel Vật lý - 37%, Nobel Y học & Sinh lý học - 42%, Nobel Kinh tế - 55%, Nobel Văn chương - 27%, Nobel Hoà bình 10%. Và cũng xin nhớ rằng dân số của cộng đồng Do Thái chỉ bằng 2% của Mỹ.

Trí tuệ Do Thái thể hiện không chỉ ở nam giới mà cả nữ giới. Trong 4 ngành khoa học có 18 nữ Nobel gia thì 36% là các bà gốc Do Thái, tỷ lệ còn cao hơn cả các ông. Nếu không kể giải Nobel, thì bất cứ giải quốc tế nào khác, tỷ lệ các nhà khoa học Do Thái cũng tương tự. Chỉ xin kể một giải chúng ta đã nói nhiều là giải Fields thì các nhà toán học trẻ người Do Thái được giải chiếm 27%, giải thành tựu suốt đời trong Toán học, họ chiếm tới 55%.

Các Nobel gia người Do Thái cũng nằm trong một số “điều đặc biệt” của giải. Chẳng hạn Elia Wiesel, người sống sót từ trại tập trung của phát xít Đức được giải Nobel Hoà bình năm 1986. Nhà Nobel cao tuổi nhất khi được trao giải là người Balan gốc Do Thái, Leonid Hurwicz, giải Nobel kinh tế 2007 năm ông đã 90. Nobel gia sống thọ nhất là bà Rita Levi-Montalcini, giải Nobel Sinh lý học 1936 hiện đã vượt qua tuổi 102 hoặc một nhà văn bị nhà nước buộc không được nhận giải là Boris Pasternak, giải Nobel văn học năm 1958. Nhà khoa học được bình chọn là nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ XX - Albert Einstein – cũng là người Mỹ gốc Do Thái.

Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế

Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại. Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên...

Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu cực kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:

Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại:

- Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);

- Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu;

- Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển;

- 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008)… là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng...

Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người:

- Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy.

- Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ, với tài sản cá nhân lên tới 36 tỷ USD. Nếu được chính phủ VN cho phép thì khả năng Sheldon Adelson sắp mở sòng bạc tại thành phố Hồ Chí Minh.

- George Soros giàu thứ 22 ở Mỹ (19 tỷ USD) không chỉ nổi tiếng về giàu có mà ông còn là bậc thầy về những phi vụ đầu cơ đi vào lịch sử...

- Michael Bloomberg có tài sản riêng 22 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế.

Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của nước này. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.

Nước Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm 2011 khoảng 31.500 USD (nguồn web CIA.gov). Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu người Ả Rập xung quanh...

Nguyên nhân do đâu?

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.

Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm qua. Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.

Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) – kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.

Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.

Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm. Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.” Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá nhân trên một hình thức cao hơn”. Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.

Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.

Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có. Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David ... đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.

Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào. Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành ngân hàng?).

Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị bọn Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.” Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái. Marx nói như vậy nghĩa là đã thừa nhận người Do Thái tham dự sáng lập ra chủ nghĩa tư bản, một chế độ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến và làm nên phần chủ yếu trong cộng đồng quốc tế hiện nay. Quả thật, người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Kinh Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc đời và của cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được phép dùng tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm cắp tài sản người khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ là của người đó mà phải dùng nó để giúp kẻ khác... Có thể hiểu “Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài sản của mình” nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải chia bớt cho người nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân ái, bình đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao cộng đồng Do Thái ở đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ.

Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.

Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu nghèo khổ. Hai nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các quốc gia khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi …

Muốn làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận quyền tư hữu tài sản. Kinh Talmud viết: ai nói “Của tôi là của tôi, của anh là của anh” (mine is mine and yours is yours) thì là người bình thường (average); nói “Của tôi là của anh, của anh là của tôi” thì là kẻ ngu ngốc; nói “Của tôi là của anh và của anh là của anh” thì là ngoan đạo (godly); ai nói “Của anh là của tôi và của tôi là của tôi” là kẻ xấu (evil). Nghĩa là họ thừa nhận quyền tư hữu tài sản là chính đáng, không ai được xâm phạm tài sản của người khác.

Tuy thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ quyền đó, nhưng đạo Do Thái không thừa nhận quyền sở hữu tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho rằng tất cả của cải đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế, mọi người đều chỉ là kẻ quản lý hoặc kẻ được ủy thác của cải đó. Tài nguyên thiên nhiên do Thượng Đế tạo ra là để ban cho tất cả mọi người, không ai có quyền coi là của riêng mình. Đây là một quan niệm cực kỳ tiến bộ và có giá trị hiện thực cho tới ngày nay: tài nguyên thiên nhiên, sự giàu có của đất nước là tài sản của toàn dân, tuyệt đối không được coi là của một số nhóm lợi ích hoặc cá nhân.

Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng hạn:

- Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà;

- Bán nhiều lãi ít tức là bán 3 cái (lãi) chỉ bằng bán 1 cái;

- Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả;

- Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn;

- Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi;

- Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta;

- Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền; v.v…

So sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo Do Thái là tôn giáo của người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô là tôn giáo của người nghèo. Khác biệt căn bản ấy là một trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày xưa khinh ghét người Do Thái (hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ trình bày về vấn đề này).

Từ sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và tiền bạc nói trên, có thể thấy hệ thống tư tưởng của đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn hóa bất hủ của dân tộc Do Thái – nền móng vững chắc làm cho dân tộc này dù phải sống lưu vong không tổ quốc hàng nghìn năm nhưng cuối cùng vẫn là dân tộc thành công nhất trên hầu hết các hoạt động của loài người.

Đồng thời các nguyên lý chính của đạo Do Thái đã tác động không nhỏ tới giáo lý đạo Ki-tô và đạo Islam; hai tôn giáo lớn này đều có nguồn gốc từ đạo Do Thái. Cuối cùng, nhờ có những điểm độc đáo nói trên, văn minh Hebrew của phương Đông trong quá trình giao lưu kết hợp với văn minh Hy-lạp của phương Tây đã sinh ra một nền văn minh mới – văn minh Ki-tô giáo, sau rốt trở thành nền văn minh phương Tây rực rỡ mấy nghìn năm nay. Có lẽ đây là thành tựu đáng kể nhất mà nền văn minh Hebrew đã đóng góp cho nhân loại. Điều đáng nói là, do các nguyên nhân lịch sử cực kỳ phức tạp, lâu nay người ta đã coi nhẹ nền văn minh Hebrew, và bây giờ đã đến lúc loài người nên sửa chữa sai lầm đó.

Như vậy Lời của Chúa đến nay vẫn không bao giờ thay đổi, ai có tai hãy nghe và thực hành trong niềm tin kính và biết ơn Chúa Trời.

"Vậy, các ngươi phải giữ làm theo các mạng lịnh và luật lệ nầy; vì ấy là sự khôn ngoan và sự thông sáng của các ngươi trước mặt các dân tộc; họ nghe nói về các luật lệ nầy, sẽ nói rằng: Dân nầy là một dân khôn ngoan và thông sáng không hai!" (Phục truyền 4:6)


Theo VFPRESS
- See more at: http://lutheranvietnam.org/Tintuc-Chitiet.aspx?NewsId=3364#sthash.5gvUG0dp.dpuf

Thứ Năm, 30 tháng 10, 2014

KHI NGƯỜI KHÔNG ĐÁP TRẢ

jesus-cross-and-sun



Ai trong các con có bạn hữu nửa đêm đến nhà mình nói:  Bạn ơi, cho tôi mượn mấy tấm bánh, vì bằng hữu ở xa tới mà tôi hết đồ ăn rồi.  Người kia ở trong trả lời:  Ðừng quấy rầy người ta, cửa đóng rồi, trẻ nhỏ ngủ hết, ai dậy mà lấy cho ông được.  Nhưng nếu họ cứ gõ hoài.  Ta bảo thật, người ấy không dậy mà cho vì tình bạn bè thì ít ra vì họ quấy rầy nên cũng ráng dậy mà lấy cho họ.  Nên Ta bảo cho các con rõ: Vì hễ ai xin, sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ sẽ mở cho (Lc. 11: 5-10).
Chúa bảo tôi đến gõ cửa, ở đấy có chờ đợi.  Ðó là lời xác định của Chúa.  Như vậy, chắc chắn tôi sẽ bắt gặp nếu tôi kiếm tìm, tôi sẽ tìm thấy nếu tôi van xin.
*****************************
Nhưng trong đời, tôi đã kinh nghiệm một nỗi bận tâm khó hiểu.  Tôi gọi mà Chúa không đáp trả.  Tôi xin mà Chúa không cho.  Có những vực sâu của tâm hồn, có những đêm dài bất an, tôi hướng về Chúa nhưng tôi không gặp.  Tôi không ước mơ những ước mơ lớn.  Tôi chẳng xin sang giàu.  Tôi chỉ xin cho tôi nhẹ bớt khổ đau tâm hồn.  Tôi chỉ xin cho đỡ kéo dài bệnh tật của thân xác.  Tôi chỉ xin Chúa soi cho tôi một ánh đèn khi tôi phải quyết định những vấn đề quan trọng.  Tôi chỉ xin Chúa giữ tôi lại trước đêm đen mịt mùng cám dỗ.  Nhưng tiếng tôi từ vực sâu lại vọng về với tôi trong nỗi vắng. Những lúc tôi cần Chúa nhất thì Ngài lại bỏ tôi đi xa.  Vì sao Người im tiếng?
*****************************
Ngài im tiếng.  Hay có phải Ngài đang nói mà tôi không nghe?  Ngài chối từ.  Hay có phải cánh cửa đã mở mà tôi không vào vì có vũ tiệc của mùa xuân trần thế ở chung quanh?  Ngài im lặng.  Hay có phải Ngài bảo tôi: Hãy vào sa mạc, hãy ra bờ đá lặng thinh, hãy khép lại bớt cửa lòng rồi con sẽ nghe thấy tiếng Cha.  Nhưng tôi chán những bờ đá vắng vẻ, và tôi đã yêu những vũ tiệc của mùa xuân trần thế ở chung quanh.  Làm sao tim tôi nghe được tiếng con họa mi đang hót khi mà by ve sầu đam mê đang kêu inh ỏi trong hồn?
Ngài thờ ơ.  Hay có phải Ngài không đáp trả vì tôi bất xứng với ân sủng của Ngài.  Chẳng ai có thể trách vì sao không có mặt trời nếu họ cứ sống dưới hầm tối, vực sâu.  Chẳng ai có thể trách vì sao không có bình an nở giữa khu vườn tham lam.  Người cha tốt là người cha đóng cửa nhà mình để đứa con khỏi ngày ngày về lấy gia tài đi hoang đàng, phung phí.
Vì sao Chúa không cho tôi điều tôi xin?  Ðã bao lần Chúa bắt tôi đi.  Gian nan.  Mỏi.  Tôi muốn ghé tạm xuống đường ngồi nghỉ.  Nhưng Chúa biết để tôi ngồi nghỉ, dần dà tôi sẽ nghe theo tiếng nói của đất thấp, tôi sẽ lười biếng đối với tiếng gọi của trời cao.  Tôi trách vì sao Người không cho tôi lập nghiệp trên những ước mơ của tôi, xin làm quê hương trên những ý nghĩ riêng tư của tôi.  Ngài chẳng đáp trả, vì Ngài biết đường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi.  Trong những đêm đen như mù mịt, tôi gõ nhưng cánh cửa chẳng mở.  Phải chăng chỉ có Ngài, Ngài mới biết những gì là tốt nhất cho phần rỗi của tôi. Như vậy, không đáp trả có là dấu chỉ của tình thương?
*****************************
Khi không đáp trả, đấy cũng là một cách trả lời.  Trả lời bằng lặng im nhiều khi lại là câu trả lời thâm sâu và hàm chứa nhiều ý nghĩa.
Tôi không đến với ai mà tôi biết chắc rằng tôi không thể tin cậy.  Khi đến xin Chúa trợ giúp là tôi đặt niềm tin nơi Ngài.  Nếu đã đặt niềm tin thì sao lại có thể phân vân.  Khi Ngài im lặng như không đáp trả, tôi lo âu, thì đấy là dấu hiệu niềm tin đó không vững vàng.
Niềm tin là lời cầu nguyện để xin được biến đổi.  Như thỏi đất sét tin mình nằm trong tay người thợ lành nghề.  Người thợ gốm biết loại đất sét nào có sức chịu đựng để đúc gạch lót đường, loại nào có thể tạc tượng.  Niềm tin vững vàng là phó thác trong tay người thợ gốm vì tin rằng mình được yêu thương và săn sóc.  Tin vững vàng hệ tại phó thác rằng Chúa là người thợ gốm khôn ngoan và không lầm lẫn trong công trình sáng tạo.  Chứ tin vững vàng không có nghĩa là tin mình sẽ biến đổi được ý định của Chúa để đạt được điều mình xin.  Có những lời xin chẳng bao giờ được đáp trả nhưng lại là một ân sủng thật lớn lao.
*****************************
Ngày còn bé tôi không biết cầu nguyện thế nào. Những ngày bom nổ nhiều là những ngày mẹ tôi càng lo.  Mỗi tối, mẹ tôi bảo tôi ngồi lần hạt cầu nguyện cho cha ngoài trận tuyến.  Trong trí óc non dại, tôi cầu nguyện cho cha tôi được bình yên.  Một lằn đạn hiểm nghèo.  Một trái mìn kín đáo.  Ðời sống bếp bênh như treo bằng sợi chỉ.  Chỉ một giấy báo tin thôi, tôi sẽ là đứa mồ côi.  Mẹ tôi sẽ là góa phụ.  Tôi đã thấy nhiều lá cờ trải lên mộ đất.  Tôi đã thấy nhiều chuyến xe nhà binh chở đơn độc một quan tài, người thiếu phụ đội nón trắng ngồi lặng lẽ không còn nước mắt để khóc.
Rồi chuyện một đêm đã đến.  Chiến tranh đổ xuống trên mảnh đất quê tôi.  Tôi còn bé, nhưng tôi hiểu những nghẹn ngào của người có thân nhân vừa mới vĩnh biệt.  Mưa ướt lẹp xẹp, tôi nghển cổ nhìn qua cửa sổ đông chật người.  Một chiều mưa ảm đạm, lạnh lẽo làm sao.  Mái lá thấp đổ những dòng mưa thảm não.  Tôi vẫn còn nhớ cái buổi chiều xám nặng nề ấy cho tới hôm nay.  Ðôi chân của cậu X.  chết nằm sóng sượt trên cái phản gỗ.  Bùn dính lem luốc.  Mợ X. khóc thảm thiết bên xác chồng mới chết trận.  Ai đã bắn chết cậu?  Có phải kẻ mà cậu chưa kịp bắn?


Tò mò, tôi theo những đứa trẻ khác ra ven rừng xem xác chết.  Những hố bom cày tung đất còn mới nguyên.  Vải băng trắng còn lẫn với xác người chưa kịp thu.  Giữa những xác người ấy, tôi thấy một người nằm chết cong queo, cụt chân vì bom nổ, máu bầm khô bết vào áo đầm đìa.  Mặt cháy đen.  Nhìn kỹ trên khuôn mặt ấy, tôi không quên được là chuỗi tràng hạt vẫn quàng vòng quanh cổ. Kẻ chết là một bộ đội miền Bắc.  Ðiều làm tôi ngỡ ngàng là bộ đội cộng sản cũng tin vào Chúa như tôi sao?

Từ ngày đó, mỗi lần giúp lễ, nhìn lên thánh giá mà hồn tôi bâng khuâng.  Tôi thấy Chúa buồn.  Quỳ đây, tôi cầu nguyện xin Chúa chở che cha tôi ngoài chiến trận.  Nhưng người cán binh bộ độ ấy, có thể cũng có một đứa con trai bằng tuổi tôi ở ngoài miền Bắc.  Nó cũng là cậu bé giúp lễ.  Cứ mỗi sáng, mẹ nó cũng đánh thức nó dậy thật sớm để giúp lễ, cầu nguyện cho cha đang ở mãi trong miền Nam heo hút.  Năm tháng bặt tin, chắc chiều chiều, tối tối, mẹ nó cũng rối bời lòng trí, thẫn thờ nhìn về phương Nam, dục nó đọc kinh.  Chúa nghe lời tôi để cha tôi giết họ?  Chúa nghe lời cậu bé kia để cha cậu giết cha tôi?  Cả hai cậu bé đều cầu nguyện, Chúa biết nghe lời ai?
Tôi không tin là Chúa có câu trả lời.  Tôi chỉ cảm thấy rằng Chúa khó xử ghê gớm lắm.  Chúa trên thập giá như càng thêm đau đớn.  Mỗi lời cầu của tôi là một vết thương cho Ngài.  Mỗi nỗi lo âu của cậu bé ngoài miền Bắc kia làm Ngài thêm khổ tâm.
Tôi hình dung Chúa như một người cha.  Ðứa con thứ nhất chạy đến: Cha ơi, đưa con dao cho con để con chém nó.  Ðứa con kia chạy lại, sợ hãi: Cha ơi, đừng đưa!  Cha có biết rằng con cũng là con của cha sao?  Và người cha chỉ còn biết đớn đau mà thôi, vì cả hai con đều là con của mình.
Từ đó, mỗi buổi sáng giúp lễ, tôi thấy Chúa trên thập giá như ngậm ngùi.  Tay giang rộng cứ thêm mãi khổ thương.  Từ ngày đó, trong cái trí óc non nhỏ của tôi, tôi hiểu mơ màng rằng bất cứ hành động nào gây thương tích cho nhau cũng là làm khổ cho Cha trên trời.
*****************************
Lạy Chúa,
Mỗi khi con cầu nguyện thì cho con biết xin được biến đổi, chứ đừng biến đổi Chúa. 
 Làm sao con có thể biến đổi sự khôn ngoan của Chúa thành sự vụng về của con.  Khi con nài Chúa làm theo ý con là con muốn đem sự hoàn hảo của Chúa thành những bất toàn giống như của con.
Con ngỡ tiếng sói sủa là vui tai.  Con ngỡ lời mời của Satan là tha thiết.  Con ngỡ trái táo hồng có hương thơm, nào ngờ đâu con có biết sâu độc làm tổ ở bên trong.  Những lời con xin nhiều khi rất đẹp, nhưng chỉ là đẹp theo cái nhìn của con mà thôi.
Lạy Chúa,
Xin cho con hiểu rằng có những lời xin mà Chúa chẳng thể đáp trả được. 
 
Và chính lúc Chúa im lặng lại là lúc Chúa đang nói với con bằng ngôn ngữ nhiệm mầu nhất.

LM Nguyễn Tầm Thường


Thứ Tư, 29 tháng 10, 2014

XÂY DỰNG MỘT GIA ĐÌNH HÒA HỢP HẠNH PHÚC





1.LỜI CHÚA: 
Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7).

2.CÂU CHUYỆN:
Có hai vợ chồng nhà kia khi mới lấy nhau, sống rất hòa thuận, luôn yêu thương và tôn trọng nhường nhịn nhau. Nhưng khi về già, hai người lại thường hay tranh cãi nhau : Ông nói một thì bà nói hai ba, chẳng ai chịu ai.
Một hôm, vào dịp giáo xứ mở tuần tĩnh tâm Mùa Chay để giúp các tín hữu dọn tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh, cha giảng tĩnh tâm khai triển đề tài xây dựng gia đình hạnh phúc. Bà đã đến gặp riêng và thú nhận với cha về tình trạng xung khắc giữa hai vợ chồng để xin một lời khuyên. Nghe xong cha giảng phòng trao cho bà một chai nước phép và dạy bà mỗi lần bị chồng la rầy, thay vì nói đốp chát lại, bà hãy mở chai nước phép ra, tợp một ngụm ngậm trong miệng không được nuốt và thầm thĩ đọc một chục kinh mân côi thì chắc chắn nhờ Mẹ chuyển cầu mà Chúa sẽ làm phép lạ cho chồng bà im lặng và gia đình sẽ êm ấm thuận hòa như hồi mới cưới.
Bà nghe lời, cha mang chai nước phép về. Khi vừa tới đầu ngõ, ông chồng đã từ trong nhà chạy ra, vẻ mặt giận dữ và quát mắng:
-Bà rúc ở cái xó xỉnh nào mà đến giờ này mới chịu vác mặt về nhà. Có mau vào bếp nấu cơm cho “ông” ăn hay không, thì bảo.
Nghe vậy, bà liền mở chai nước phép ra tợp một ngụm ngậm trong miệng và âm thầm đọc một chục kinh mân côi như lời cha dạy. Thấy bà không nói đốp chát lại như mọi khi, nên ông chồng cũng đành nín thinh.
Thấy hiệu quả rõ ràng, bà vui mừng tự nhủ : “Linh thật. Đúng là Chúa đã khóa miệng lão ta rồi !”.
Một lúc sau, bà ra bờ giếng vo gạo thổi cơm, thì lại nghe ông chồng từ trong nhà nói vọng ra :
- Bà làm gì mà mãi tới giờ mới đi vo gạo thì biết đến bao giờ mới có cơm cho “ông” ăn đây hả ?
Bà toan mở miệng cự lại như mọi lần, nhưng nhớ lời cha dặn, bà lại tợp một ngụm nước phép trong miệng và lẩm bẩm đọc kinh. Thấy bà không cãi, ông cũng nín thinh...
Từ ngày đó trở đi, hai ông bà đã dần dần thay đổi cách ứng xử với nhau và cuộc sống gia đình trở lại êm ấm như hồi mới cưới.
Chai nước phép cha giảng phòng cho thực ra cũng chỉ là nước lã bình thường, nhưng chính thái độ không cãi lại chồng, mới là nguyên nhân chính giúp gia đình được hòa thuận như cũ.

3. SUY NIỆM:
Khi cử hành hôn lễ, hai người nói lời thề hứa trước chủ sự và cộng đoàn: “Anh (em) nhận em (anh) làm vợ (chồng) và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh) khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em)”, qua đó, họ được Chúa tác hợp nên vợ chồng, và trở thành dấu chỉ sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh.
Vậy hai vợ chồng cần làm gì để đạt tới tình yêu đích thực, là điều kiện xây dựng một gia đình hòa hợp hạnh phúc?

1. Tình yêu đích thực đòi hai người phải tôn trọng lẫn nhau:

Tình yêu luôn đi đôi với sự tôn trọng.
Tôn trọng, trước hết, là thái độ nhìn nhận chồng hay vợ là bạn ngang hàng: Người này không phải là đầy tớ, nhưng là nửa phần xương thịt của người kia.
Tiếp đến, tôn trọng là đón nhận con người toàn diện cả ưu lẫn khuyết điểm, cả quá khứ, hiện tại và tương lai của nhau…
Tôn  trọng những khác biệt về cách suy nghĩ, cảm nhận của nhau... Nhờ biết lắng nghe nhau, đôi vợ chồng sẽ hiểu biết nhau hơn.
Sự tôn trọng được biểu lộ qua lời xưng hô, thái độ và cách ứng xử với nhau.
Không những tôn trọng khi được thành công, mạnh khoẻ, mà cả trong những lúc gian nan thất bại, hay ốm đau.
Tránh xưng hô “mày tao” với nhau.
Tránh những lời lẽ thô tục hoặc chê trách nhau trước mặt người khác.
Luôn nói những lời âu yếm và đối xử trân trọng như người xưa dạy : “Phu thê tương kính như tân” (vợ chồng kính trọng nhau như khách). 

2. Tình yêu đích thực đòi hai người phải năng thể hiện tình cảm với nhau :

Đối với tâm lý người nữ: “Tình yêu bởi tai nghe”. Người chồng cần nói những lời dịu dàng êm ái, kèm theo những cử chỉ âu yếm với vợ. Những lời yêu thương này là gia vị giúp tình yêu thêm nồng thắm. Đừng đợi đến lúc gẫn gũi ái ân mới nói và bày tỏ tình yêu thương nhau.
Giữa vợ chồng, có trăm ngàn cách bày tỏ tình yêu: từ lời nói đơn giản nhất: “Anh yêu em” hay “Em yêu anh”, đến thái độ ân cần, tỏ lòng biết ơn, tặng nhau lời khen thành thật, chân thành xây dựng sửa lỗi cho nhau, nhớ tặng quà mừng sinh nhật, hay kỷ niệm ngày cưới...

3. Tình yêu đích thực đòi hai người phải dành nhiều thời gian bên nhau:

Yêu nhau, người ta hay nghĩ đến nhau và muốn được ở gần nhau.
Nhiều cặp vợ chồng đã đổ vỡ hạnh phúc vì sống xa nhau lâu ngày hoặc một người quá lo công ăn việc làm mà không quan tâm đến người kia.
Bởi vậy, vợ chồng cần dành nhiều thời giờ để tâm sự, chia sẻ vui buồn và các nỗi ưu tư gặp phải, nhờ đó, sẽ nâng đỡ khích lệ nhau, làm cho cuộc sống chung ngày thêm hòa hợp hạnh phúc.

4. Tình yêu đích thực đòi hai người phải năng đối thoại với nhau:

Đối thoại là nói chuyện với nhau trong sự bình tĩnh và tôn trọng nhau.
Đối thọai giúp duy trì và củng cố hạnh phúc gia đình. Nhờ năng đối thoại mà vợ chồng sẽ hiểu biết về nhauhơn, giảm bớt những bất đồng ý kiến.
Đối thoại đòi phải “người nói, kẻ nghe”.
Cần nói cho nhau biết những điều mình suy nghĩ và mong ước, đồng thời, cần nghe những suy nghĩ và ước mong của người kia. Không những phải nghe bằng tai, mà còn phải nghe bằng cả con tim.
Vợ chồng cần trao đổi trước khi quyết định điều quan trọng liên quan đến các thành viên trong gia đình như: thay đổi chỗ ở hay công ăn việc làm, đổi trường học cho con, tổ chức lại gia đình cho ngăn nắp hơn, thống nhất về cách dạy dỗ con cái, cách ứng xử với cha mẹ đôi bên, cách giao tế với bạn bè, hình thành một nếp sống đạo đức cho gia đình...
Nếu biết rằng thường xuyên trao đổi ý kiến, vợ chồng sẽ dễ đạt tới sự hòa hợp là điều kiện để thành công như người xưa dạy: “Thuận vợ, thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”.

5. Tình yêu đích thực đòi hai người phải hy sinh cho nhau:

Một trong những bằng chứng cho thấy tình yêu chân thật hay không, là có biết quên mình và hy sinh cho nhau hay không. Yêu thương mà không hy sinh vì nhau, thì chưa phải tình yêu thật sự.
Càng hy sinh nhiều, càng chứng tỏ yêu nhiều. Hy sinh mạng sống vì nhau là dấu hiệu của tình yêu tột đỉnh như lời Chúa dạy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Trái ngược với hy sinh, là thói ích kỷ, biểu hiệu qua cách cư xử gia trưởng độc đoán, chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ lo bảo vệ quyền lợi của mình và mặc kệ người kia.
Hy sinh còn là nhẫn nhịn chịu đựng nhau vì “một sự nhịn, bằng chín sự lành”. Dĩ nhiên có những điều không thể nhượng bộ, nhất là về mặt luân lý đạo đức, vì chịu đựng làm điều xấu theo ý chồng hay vợ, không phải là hy sinh, nhưng là sự đồng loã với tội ác, làm hại cho hạnh phúc gia đình.
Hy sinh cũng có nghĩa là tha thứ cho nhau vì “nhân vô thập toàn”.
Sau hết, sự hy sinh còn được biểu lộ qua việc năng nghĩ đến nhau, quan tâm chăm sóc phục vụ cho nhau,không quản ngại vất vả vì nhau, nhất là khi một người bị bệnh nan y, hoặc lâm vào hòan cảnh khó khăn bất lợi...

6. Tình yêu đích thực đòi hai người phải thủy chung với nhau:

Khi cử hành hôn lễ, hai người đã thề hứa chung thủy với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu… Do đó, hai vợ chồng đừng sử dụng tiền bạc, thì giờ, giải trí... theo sở thích riêng mình, mà phải biết nghĩ đến chồng hay vợ nữa.
Sau giờ tan sở, người chồng cần nhớ mình còn có vơk con thân yêu ở nhà, nên cần phải về nhà ăn cơm chung với vợ con.
Cần tránh những giao tiếp với bạn bè khác phái vì những điều này có nguy hại cho sự chung thủy vợ chồng. Bên cạnh đó, cũng cần tránh thái độ ghen tương quá đáng vì vì sự ghen tương quá đáng này dễ bào mòn tình yêu, hoặc như con sâu đục khoét, làm băng họai tình yêu giữa hai vợ chồng.

7. Tình yêu đích thực đòi hai người phải chu toàn bổn phận với nhau:

Thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng: “Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng. Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng. Cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Satan lợi dụng để cám dỗ” (1 Cr 7,3-5).
Hai vợ chồng hòa hợp để nên một thân mình, là một trong những yếu tố nòng cốt của tình yêu vợ chồng.
Chẳng những cần nên một về tâm hồn, mà cả về thể xác nữa. Họ muốn trao hiến cho nhau, hòa tan trong nhau, để đem lại hạnh phúc cho nhau.
Đừng làm cho việc chăn gối trở thành việc nghèo nàn, nhàm chán, phải làm cho xong, nhưng cần làm cho nó nên mới mẻ, phong phú, để mỗi lần trao hiến cho nhau, cả hai đều cảm thấy hạnh phúc.
Để tình yêu ngày một hoà hợp, vợ chồng cần phải học hỏi thêm về tâm sinh lý nam nữ qua các sách giáo dục hôn nhân gia đình, hoặc tham dự những khóa hội thảo chuyên đề về tâm sinh lý vợ chồng.

8. Tình yêu đích thực đòi hai người phải năng cầu nguyện với nhau và cầu cho nhau:

Thiên Chúa là Tình yêu”. Chính Thiên Chúa đã thiết lập hôn nhân và gia đình. Ngài luôn đồng hành với hai vợ chồng để giúp họ yêu thương nhau và xây dựng cuộc sống gia đình ngày thêm hòa hợp hạnh phúc.
Giờ cầu nguyện trong gia đình rất cần cho gia đình. Vì thế, ngay từ khi mới về chung sống, hai người cần nhất trí cầu nguyện chung với nhau mỗi tối như lời Chúa dạy: “Đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18,20).
Hạnh phúc gia đình đòi phải có Chúa hiện diện để chia sẻ mọi biến cố vui buồn của gia đình. Ngài ở giữa, như mối dây nối kết giữa hai vợ chồng, giúp họ lắng nghe nhau, hiểu biết nhau, thuỷ chung với nhau và cùng nhau vượt qua mọi gian nan thử thách trong cuộc sống.

4. THẢO LUẬN:
- Hãy cho biết gia đình của bạn hiện đã có tình yeu đích thực theo các tiêu chuẩn nói trên hay chưa?
- Bạn cần làm gì để xây dựng cho gia đình bạn ngày một hòa hợp hạnh phúc hơn?

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Cha từ ái.
Xin giúp chúng con là những người đang chuẩn bị,
 hay đang sống trong cuộc sống gia đình,
biết từ bỏ ý riêng, cùng những đam mê, tật xấu,
để xây dựng một gia đình hòa hợp hạnh phúc.
Xin cho gia đình chúng con ý thức chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng
bằng lối sống yêu thương, quên mình, vị tha,
hầu giúp người lương bên cạnh nhận biết Chúa
và cùng chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.
AMEN.
Linh mục Đan Vinh
(Nguồn : tonggiaophanhue.net)

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

ĐỐI THOẠI GIỮA BÚT CHÌ VÀ VIÊN TẨY


In

Bút chì: Con xin lỗi!
Viên tẩy: Vì chuyện gì thế? Con làm gì có lỗi đâu.
Bút chì: Con xin lỗi bởi mẹ phải chịu đau đớn vì con. Hễ mỗi lần con phạm sai lầm, mẹ luôn ở đó để xóa lỗi ấy. Nhưng, khi làm biến đi lỗi của con, mẹ lại mất một phần của chính mẹ. Mỗi lần như thế, mẹ càng bé hơn.
Viên tẩy: Đúng vậy! Nhưng, thật ra, mẹ chẳng thấy sao đâu. Con nhìn xem, mẹ được sinh ra để làm việc này mà. Mẹ được sinh ra để giúp con bất cứ khi nào con phạm sai lầm. Cho dù ngày nào đó, mẹ biết mẹ sẽ mất đi và con sẽ thay thế mẹ bằng người khác, mẹ vẫn rất vui vì công việc mà mẹ được giao phó. Cho nên, con đừng lo lắng nữa nha! Mẹ ghét nhìn thấy con buồn lắm, cưng ạ.
+++
Tôi đã gặp mẫu đối thoại nhiều xúc cảm này giữa cây bút chì và cục tẩy. Cha mẹ cũng giống như Cục Tẩy. Và Con cái là Bút chì. Cha mẹ luôn có mặt tại nơi vì bọn trẻ và sửa chữa những sai lầm của chúng. Thỉnh thoảng, trong khi làm như thế, cha mẹ phải chịu đau đớn, trở nên "bé" đi, già hơn và cuối cùng ra đi. Dù cho bọn trẻ rồi sẽ tìm được ai khác (vợ, chồng), cha mẹ vẫn rất hạnh phúc vì những gì họ đã làm cho con cái của mình và lúc nào cũng chẳng ưa nhìn thấy người thân thương của mình lo lắng hay phiền muộn.
Suốt đời mình, tôi là cây bút chì. Cho nên điều đó làm tôi đau đớn khi nhìn thấy VIÊN TẨY vốn là cha mẹ của mình mỗi ngày càng bé đi. Bởi tôi biết rằng, một ngày kia, tất cả những gì mà tôi được cha mẹ để lại có thể là các vụn tẩy và hoài niệm về những gì tôi từng có được.
Ước mong Viên Tẩy sống lâu cho Bút chì viết lên những điều tốt đẹp.

Phan Văn Phước
(sưu tầm và hiệu đính cho đúng với bản tiếng Anh bên dưới)
++++++++++++
Pencil: I'm sorry.
Eraser: For what? You didn't do anything wrong.
Pencil: I'm sorry because you get hurt because of me. Whenever I made a mistake, you're always there to erase it. But, as you make my mistakes vanish, you lose a part of yourself. You get smaller and smaller each time.
Eraser: That's true. But I don't really mind. You see, I was made to do this. I was made to help you whenever you do something wrong. Even though one day, I know I'll be gone and you'll replace me with a new one, I'm actually happy with my assigned job. So please, stop worrying. I hate seeing you sad, dear.
+++
I found this conversation between the pencil and the eraser very inspirational. Parents are like the ERASER. And Children are the PENCIL. They are always there for their children, cleaning up their mistakes. Sometimes along the way, they get hurt and become smaller/ older, and eventually pass on. Though their children will eventually find someone new (spouse), but parents are still happy with what they did for their children and will always hate seeing their precious ones worrying or sad.
All my life, I've been the PENCIL. And it pains me to see the ERASER that is my parents getting smaller and smaller each day. For I know that one day, all that I'm left with would be eraser shavings and memories of what I used to have.
May THE ERASERS live longer and The Pencils write good things!

(Nguồn : tonggiaophanhue.net)


Thứ Hai, 27 tháng 10, 2014

XE ĐIỆN MỘT BÁNH CỰC ĐỘC


Người điều khiển Ryno có thể ngả người về phía trước để tăng tốc và ngả về phía sau để giảm tốc.

 Ryno là một phương tiện di chuyển cá nhân độc đáo, linh hoạt và rất thân thiện với môi trường.

Ryno, chiếc xe điện một bánh cực độc


 Ở những nơi thường xuyên xảy ra ùn tắc thì chiếc xe điện một bánh Ryno được xem là lựa chọn tối ưu giúp lưu thông trên đường dễ dàng hơn.


Những năm gần đây, phương tiện di chuyển cá nhân dường như được thiết kế với một hướng chung là: nhỏ gọn, linh hoạt và hướng tới nhiều đối tượng sử dụng. Ryno là một phương tiện di chuyển cá nhân độc đáo, linh hoạt và rất thân thiện với môi trường.

Theo đó, Ryno Motors (Mỹ) đã giới thiệu chiếc xe một bánh độc đáo với tên gọi Ryno. Ryno là phương tiện di chuyển cá nhân thứ hai trên thế giới chỉ có một bánh xe, sau chiếc Orbis. Chiếc Ryno này có thiết kế khá nhỏ gọn, sử dụng một chiếc bánh có lốp cao su trông giống như một chiếc bánh xe hơi. Thân xe khá đơn giản với một chỗ ngồi và có tay lái như những chiếc xe hai bánh thông thường.
Ryno có thể đạt tốc độ tối đa 40 km/h, còn pin có thể nạp đầy điện sau 90 phút. Ryno có gắn một con quay hồi chuyển giúp nó duy trì tư thế thẳng đứng. Người điều khiển sẽ đổ người về phía trước để tăng tốc độ và đổ người về phía sau để giảm tốc độ.
Chris Hoffman, giám đốc điều hành của Ryno Motors, cho biết: "Bạn chỉ cần chưa tới 1h để học cách điều khiển Ryno, nhưng bạn sẽ phải tập trung tâm trí liên tục trong quá trình điều khiển nó. Khi bạn cùng Ryno xuất hiện trên phố, có lẽ nhiều người sẽ nghĩ đó là cỗ xe từ một trò chơi điện tử".

Ý tưởng chế tạo xe điện một bánh đã xuất hiện trong tâm trí Hoffman từ khi cô con gái 13 tuổi của ông yêu cầu cha chế tạo một phương tiện di chuyển để cô bé tới trường.
Phiên bản thương mại của chiếc Ryno sẽ xuất hiện vào tháng 8 với giá bán lẻ dự kiến là 2.250 bảng Anh (tương đương khoảng 72 triệu đồng).
epic-ryno-electric-unicycle-fi-8739-2755

epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente
epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente

epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente

epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente

epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente

epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente

epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente

epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente

epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente

epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente

epic-ryno-electric-unicycle-finally-ente

Xe chạy điện một bánh độc đáo

(Nguồn : kienthuc.net.vn)