Thứ Hai, 12 tháng 12, 2016

NHỮNG CA KHÚC GIÁNG SINH ĐƯỢC MỌI THỜI ƯA CHUỘNG





 HANG BE LEM
Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời
Nằm trong hang đá, nơi máng lừa.
Trông hang Bêlem…
Những câu hát ấy, khởi đi từ giữa thập niên 1940 của thế kỷ trước, vẫn còn vang vọng mỗi dịp mừng lễ Giáng sinh, từ trong các thánh đường Công giáo tại Việt Nam và theo chân đoàn con cái Chúa đi khắp những miền xa xôi trên thế giới, từ những đài phát thanh, đài truyền hình đến tận các tư gia. Bài hát thật giản dị, dễ nhớ, đã đi sâu vào lòng người, không chỉ những người Công giáo Việt Nam. Nhiều người thú nhận đó là bài thánh ca Giáng sinh đầu tiên và duy nhất mà họ thuộc nằm lòng.
Điều gì đã làm cho bài hát rất giản dị, trong sáng ấy còn vang vọng mãi trong lòng người suốt hơn nửa thế kỷ? Và ai dám bảo là nó sẽ không tồn tại đến chừng nào còn người Công giáo Việt?
Lúc sinh thời, cố nhạc sĩ Hải Linh đã có lần kể về sự ra đời của bài hát Hang Bê-lem :
Đó là bài đầu tiên mà tôi viết vào tháng 11 năm 1945. Lúc ấy tôi được 25 tuổi và đang dạy học ở trường thầy Giảng Bùi Chu.
Một hôm, tôi đi ngang qua Tòa soạn bán nguyệt san Đường Sống ở Nam Định, ông Minh Châu - chủ nhiệm - thấy tôi thường hay hát nên đố tôi làm được một bài để đăng vào báo Đường Sống nhân mùa Giáng Sinh. Tôi nhận lời và hẹn ba ngày sau trở lại.
Sau ba ngày tôi đưa bản nhạc Hang Bê-lem tới Tòa soạn và tập sơ qua cho một số anh chị em trong Tòa soạn. Khi hát lên, mọi người thấy thích quá nên ông Minh Châu mới thương lượng với tôi thế này: Ông sẽ trả chi phí cho người cầm bản nhạc lên Hà Nội để tìm Mạnh Quỳnh và thuê Mạnh Quỳnh khắc vào bản gỗ. Sau khi đã in 2000 số báo Đường Sống, ông Minh Châu sẽ cho tôi lại bản gỗ của bản nhạc. Tôi cũng đồng ý như vậy.
Tôi còn nhớ, lúc đó tôi đã in ra 500 bản với giá 3 hào hay 3 xu gì đó. Tôi gởi lên Hà Nội 10 bản. Một số nhà thờ hát và nhiều người thấy hay nhưng không tìm đâu ra bản nhạc. Thật đúng tôi là một anh nhà quê ! Đối với thủ đô Hà Nội mà chỉ có gởi 10 bản nhạc !”. Một điều rất đặc biệt là Cha Kim Định đã mua một bản danh dự với giá 100 đồng ! Tôi cũng gửi biếu Đức Cha Phạm Ngọc Chi – lúc ấy còn là Linh mục và đang dạy ở trường Lý Đoán Phát Diệm – một bản.
Bài Hang Bê-lem đã ra đời như thế, và đã được chính tác giả điều khiển ca đoàn nhà thờ chính tòa Phát Diệm hát lần đầu tiên trong thánh lễ Đêm Giáng Sinh năm 1945. Cũng chính nhờ sự thành công của bài hát này, Hải Linh đã được Giám Mục Phạm Ngọc Chi gởi đi du học ở Âu Châu vào năm 1950.
***
Hải Linh tên thật là Phanxicô Trần Văn Linh, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Ứng Luật phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, giáo phận Phát Diệm, trong một gia đình đạo hạnh. Người em trai thứ sáu của ông cũng là một linh mục nhạc sĩ (Lm Trần công Hoan tức nhạc sĩ Hùng An).
Năm lên 12 tuổi ông vào tu tập tại Trường Thử ở Trung Linh (Nam Định), nơi đây ông được Lm Rangel người Pháp (tên Việt là cố Lễ) tập luyện ca nhạc và khơi động năng khiếu về âm nhạc. Ông sớm say mê âm nhạc, tự tìm tòi học hỏi. Năm 16 tuổi ông vào học ở Chủng viện Ninh Cường, nơi đây ông đã phụ trách tập hát và đệm đàn ở nhà thờ.
Năm 1940, lúc 20 tuổi, Hải Linh vào học tại trường Thầy Giảng (Bùi Chu) và sau đó được giữ lại để dạy Pháp văn và âm nhạc tại trường. Đây là thời gian Hải Linh bắt đầu sáng tác một số bài hát đạo cũng như đời. Có lẽ bài hát đạo đầu tay của Hải Linh là bản nhạc rất phổ thông “Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam” sáng tác vào khoảng năm 1944 giữa khi đất nước đang lâm cảnh chiến tranh tàn khốc. Hải Linh cùng với Vũ Minh Trân và một số bạn hữu khác như Thăng Ca (Lm. Ngô Duy Linh), Võ Thanh (Lm. Vũ Đình Trác), Hồ Khanh (Lm. Trần Thái Hiệp)… thành lập Nhạc đoàn Sao Mai, và đã xuất bản nhiều tập ca vịnh như: Ca vịnh Đức Mẹ (1946), Ca vịnh Đức Mẹ Fatima – Thánh cả Giuse (1949), Ca vịnh Thánh Tâm – Thánh Thể (1949)… Trong số các bài của thời kỳ sơ khởi này có những bài ngày nay vẫn còn phổ biến như “Lòng con đau đớn thiết tha…”, “Ngày nay con đến hát khen mừng Mẹ Chúa Thiên Đàng”, “Nguyện xin Thánh cả Giuse quyền cao sang…”, nổi bật nhất là bài “Hang Belem”, sáng tác cho mùa Giáng sinh 1945. 
Đầu năm 1950 ông được gửi đi du học tại Roma, nhưng 5 tháng sau đổi qua Pháp. Từ 1-5-1951 ông học nhạc tại Viện Giáo Nhạc thuộc Institut Catholique de Paris, đồng thời học sáng tác tại Trường Nhạc César Franck do giáo sư Guy de Lioncourt làm giám đốc và trực tiếp hướng dẫn Hải Linh. Chính Giáo sư đã thổ lộ, theo lời kể của Cố Nhạc sĩ Lm Hoàng Kim: “Trong suốt cuộc đời dạy học của tôi, tôi chỉ gặp được hai người có tài, một người Nhật, làm trưởng ban nhạc Đài Phát thanh Nhật Bản và người thứ hai là Phanxicô Hải Linh.”
Ngoài việc học chính thức tại hai trường nói trên, Hải Linh còn tìm học hoặc trao đổi thêm với một số giáo sư nổi tiếng khác về ngũ âm cũng như về điều khiển ban nhạc. Các tác phẩm ông sáng tác trong thời kỳ du học tại Paris đã nói lên nỗi thao thức muốn tìm một nhạc ngữ phù hợp với ngôn ngữ đa thanh của dân tộc: Chúa Khải Hoàn, Ave Maria 1, Ngợi Khen, nhất là các bài Ra Khơi, Nhạc Việt, Hò Non Mước, Cóc Quân, Duyên Kỳ Ngộ, Chuông Hòa Bình, Lâm Khốc…mang đầy âm hưởng dân tộc. Giáo sư Guy de Lioncourt đã nhiều lần tỏ vẻ thích thú khi nghe “Monsieur Francois” (Người Pháp gọi Hải Linh bằng tên thánh Phanxicô) giải thích tại sao chỗ này thì viết thoáng mỏng, chỗ kia phải đơn giản hóa hòa âm, chỗ khác phải viết theo tinh thần đối âm, chỗ khác nữa lại phải đi cùng chiều thay vì có thể đi ngược chiều… chung qui là cốt đề cao tính giai điệu của nhạc ngữ dân tộc và nhất là tôn trọng thanh điệu (dấu giọng) của ngôn ngữ Việt Nam. Hải Linh là một người du học không mất gốc, một học trò biết tự trọng và được người Thầy xứng danh là bậc Thầy tôn trọng và thán phục quí mến. Từ đó, Hải Linh càng ngày càng xác tín hơn về hướng đi của mình trong công việc đưa nhạc ngữ dân tộc từ bậc giai điệu (đơn điệu) lên bậc đa âm đa điệu, và hai chủ đề chính cho các sáng tác của mình sẽ là: Tôn Vinh Thiên Chúa và Tán Tụng Quê Hương.
Năm 1956, ông trở về Việt Nam, ngoài việc dạy Hợp ca tại Viện Quốc gia Âm nhạc, ông thành lập Ca đoàn Hồn Nước nhằm thực hiện hoài bão của mình là Trình Tấu Sống Động các tác phẩm được soạn ra bằng một Lối Viết Thoáng Mỏng theo tinh thần Á Đông. Thành lập vào tháng 2/1957 thì tháng 6/1957 Ca Đoàn đã sơ diễn tại rạp Thống Nhất trong dịp lễ phát thưởng của trường trung học Nguyễn Bá Tòng. Ngày 23/12/57 Ca đoàn Hồn Nước dưới sự điều khiển của Hải Linh đã được hoan hô nhiệt liệt trong buổi ra mắt công chúng đầu tiên tại rạp Olympic (Saigon). Tiếp tục trong các năm sau, những lần trình tấu của Ca trưởng Hải Linh đều có tiếng vang… Các bản nhạc ông sáng tác trong thời kỳ này gồm có: Ave Maria 3 (Tấu lạy Bà), Ra Đời, Nữ Vương Hòa Bình, Đàlạt Trăng Mờ, Lòng Mẹ, Cung Đàn Bạc Mệnh 1,2,3, Chinh Phụ Ngâm, Chuỗi Cười… (Riêng bài Nữ Vương Hòa Bình đã đoạt giải nhất trong cuộc thi sáng tác cho Đại Hội Thánh Mẫu toàn quốc năm 1959). Trước đó, năm 1958 ông lập gia đình với cô Phạm Thị Ly.
Năm 1961 Hải Linh được học bổng sang nghiên cứu âm nhạc, giáo dục tại Đại học Ohio (Hoa Kỳ). Tại đây, ông cũng được các nhạc trưởng, nhạc công và khán thính giả Hoa Kỳ tán thưởng, nhất là trong lối trình diễn sống động và tinh tế. Năm 1969 ông sang Pháp dự định hoàn thành luận án tiến sĩ về “Cơ cấu giai điệu trong nhạc Việt”, nhưng vì một số lý do, nên phải bỏ dở luận án.
Trở về nước năm 1970, ngoài việc dạy nhạc tại Đại học Đà Lạt, Nhạc sư Hải Linh tham gia Ủy ban Thánh Nhạc toàn quốc, tiếp tục củng cố ca đoàn Hồn Nước và thực hiện các cuốn băng: Một Giờ Hợp Ca 1 và 2, đồng thời dạy nhiều lớp ca trưởng tại Saigon và Đà Lạt. Các bản nhạc sáng tác ông trong thời kỳ này: Te Deum, Ave Maria 2, Bộ lễ Nữ Vương Hòa Bình, Hồng Ân Thiên Chúa, Thằng Bờm, Tiếng Thu, Con Bướm Trắng, Đồng Tiền Vạn Lịch … Đại hội Thánh Nhạc Toàn Quốc năm 1972 tại trường Lasan Taberd cũng là một cái mốc đáng ghi nhớ trong giai đoạn này.
Từ năm 1975 đến 1986 ông tiếp tục đào tạo ca trưởng, phần lớn tại tư gia đồng thời cũng dạy đệm đàn, sáng tác cho một ít người, và cũng có những lần mở lớp tập hát, những lần hát Thánh ca đây đó trong khuôn khổ Nhà nước cho phép. Đặc biệt, bài Khúc Ca Mặt Trời được hát lần đầu tiên tại Nhà thờ Đa-kao vào tháng 10 năm 1979 nhân kỷ niệm 50 năm Dòng Phanxicô được thành lập tại Việt Nam. Vào năm 1982, dịp kỷ niệm 800 năm ngày sinh của Thánh Tổ phụ Phanxicô, phần lớn Trường Ca Các Tạo Vật đã hoàn tất và được trình tấu lần đầu cũng tại nhà thờ Đa-kao. Dịp nầy, Hải Linh đã lập Nhóm Quê Hương để vừa học vừa góp tay thực hiện các chương trình đã đề ra cùng với mấy học trò còn lại: Phác họa và khai triển các chương trong 2 cuốn sách “Lối Viết Thoáng Mỏng” và “Lối Trình Tấu Sống Động”. Các bài hát khác được sáng tác trong giai đoạn này gồm có: Vinh Danh Thiên Chúa, Phượng Trì, Kinh Lạy Cha, Khúc Nhạc Cảm Tạ, Chúc Tụng Thánh Giuse, Tình Non Nước, Hoan Ca Mùa Trường Xuân, Thơ Thơ 1,Thơ Thơ 2, Tán Tụng Hồng Ân, Tình Chúa Yêu Tôi, Bến Thiên Đàng, Yêu Con Đời Đời, Mùa Hồng Ân, Mẹ Vô Nhiễm, Xuân Về … (Các bài từ Tán tụng Hồng Ân trở đi là soạn chung với một số tác giả khác).
Ngày 8/5/1986 ông rời Việt Nam đi đoàn tụ gia đình tại Mỹ. Ông cư ngụ tại New Orleans, bang Louisiana, cùng nơi với Linh mục nhạc sư Ngô Duy Linh.
Chưa kịp nghỉ ngơi, ông đã tập dượt cho Ca đoàn Hợp tuyển Việt Nam để hát tại Đại hội mục vụ Thánh nhạc toàn quốc tổ chức tại New Orleans chiều ngày 1/7/1986. Tại đây gần 800 người gồm Ca trưởng, nhạc công Dương cầm, Quản cầm và các nhạc sĩ sáng tác công giáo Mỹ đã cảm phục tài nghệ của Nhạc sư Hải Linh.
Kế đó, ông mở các lớp Ca Trưởng tuần tự ở nhiều tiểu bang khác nhau (New Orleans (LA), California, Portland (Oregon), Missouri, Texas…) đồng thời tập dượt cho những Ca đoàn ở nhiều nơi khác nhau để hát trong các dịp lễ. Trong gần 20 tháng ở Mỹ, Nhạc sư đã tập dượt để điều khiển trên 12 buổi ca hát chính thức. Buổi điều khiển có ý nghĩa sau cùng đối với ông có lẽ là đêm Giáng Sinh 24/12/1987 tại họ đạo Đức Mẹ Lên Trời ở Avondale, bang Louisiana, khi bài thánh ca Hang Bê-lem tròn 42 tuổi. Trách nhiệm nặng nề lo tập hát cho Đại lễ Phong Thánh tại Roma năm 1988 cũng là nỗi ưu tư lo lắng nhất cuối đời Nhạc sư. Hải Linh đã sáng tác thêm một số bài hát cho dịp này, như Nhân Chứng Đức Tin, Bài Ca Khải Hoàn…và đã lên chương trình tập dượt ở nhiều nơi.
Ngày 6/1/1988 nhạc sư rời New Orleans đi Los Angeles để tập hát theo chương trình dự tính, và đã từ trần vì bị nhồi máu cơ tim, lúc 6 giờ 30 chiều ngày hôm đó tại bệnh viện Fountain Valley (California). Nơi an nghỉ cuối cùng của ông là nghĩa trang Avodale (Louisiana).
***
Chuyện kể về cố nhạc sĩ Hải Linh không dừng lại ở sáng tác đầu tay Hang Bê-lem mà còn được nhắc nhở nhiều đến các tác phẩm âm nhạc nổi tiếng sau này của ông về đạo cũng như về đời: Trường Ca Các Tạo Vật (dùng lời kinh của thánh Phanxicô, sáng tác chung với Xuân Thảo) gồm 10 bài, Trường ca Ave Maria (phổ thơ Hàn Mặc Tử) gồm 10 bài. Và một số bài thánh ca riêng lẻ như Kính mừng Nữ Vương, Tán tụng hồng ân, Ngài Là Thiên Chúa (Te Deum)… và một số bài thánh ca khác đã được hát trong 40 năm qua.
Về phần nhạc thế tục, cố nhạc sĩ đã để lại trong kho tàng âm nhạc Việt Nam những tác phẩm như: Đại tấu khúc Chinh phụ ngâm (trích thơ Đặng Trần Côn). Tác phẩm này được viết theo nhạc Việt nhưng hình thức vẫn theo lối cổ điển Tây phương, chia làm ba hành âm (mouvement): Từ khi có lệnh chiến chinh “Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt” cho đến khi người chinh phụ tiễn chinh phu lên đường lo việc nước. Cảnh người chinh phụ cô đơn chiếc bóng ở lại nhà săn sóc mẹ già và con thơ “Gà eo óc gáy sương năm trống”. Phần kết kể lại ngày đoàn viên… Đại tấu chuông hòa bình viết cho dàn đại hòa tấu và ban hợp xướng cùng với một số nhạc khí cổ truyền; Nhạc kịch thơ Duyên kỳ ngộ (thơ Hàn Mặc Tử) là một thể loại tiểu nhạc kịch (micro-opera); Trường ca cung đàn bạc mệnh (trích thơ của Nguyễn Du trong tác phẩm truyện Kiều) gồm bốn cung chia ra như sau:
- Cung thứ nhất, gồm 10 bài, tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe
- Cung thứ hai, gồm 6 bài, mô tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Thúc Sinh và Hoạn Thư nghe.
- Cung thứ ba là tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Hồ Tôn Hiến.
- Và cung thứ tư là tiếng đàn của Thúy kiều gảy cho Kim Trọng lúc tái hồi.
Thật đáng tiếc, cố nhạc sĩ Hải Linh đã chưa hoàn tất cung đàn bạc mệnh cuối cùng… Riêng các tác phẩm âm nhạc độc lập (không nằm trong bộ hay trường ca nào) cũng rất đáng chú ý như: Đà Lạt trăng mờ, Ra đời (thơ Hàn Mặc Tử ), Nhạc Việt, Hương quê, Ra khơi, Tình nước non, Cóc quân đả phá thiên đình, Thằng Bờm có cái quạt mo… Về phương diện học thuật, cố nhạc sĩ đã để lại những kinh nghiệm sáng tác, kỹ thuật và phương pháp điều khiển dàn giao hưởng và hợp xướng qua hai cuốn sách mang tên Lối viết thoáng mỏng và Lối trình tấu sống động.
***
Cây đại thụ trong làng thánh nhạc Công giáo Việt Nam đã không còn nữa, nhưng bóng mát vẫn còn tỏa rộng. Sự nghiệp của Hải Linh vẫn còn được kế thừa nơi những người ca trưởng ông đã đào tạo trong và ngoài nước, duy chỉ có tài năng của ông là không ai thay thế được. Tuy nhiên di sản ông để lại, những nhạc bản để tôn vinh Thiên Chúa và tán tụng quê hương, sẽ mãi mãi tồn tại với thời gian, nhất là mỗi mùa Giáng sinh trở lại tiếng hát về Hang đá Be lem lại cất lên khắp các thánh đường Công giáo, và âm hưởng còn vang vọng mãi nơi hồn người:
Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời…
Hang Bê-lem
Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời
Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.
Trông hang Bê lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng
Nghe trên không trung tiếng hát thiên thần vang lừng
Đàn hát (réo rắt tiếng hát), xướng ca (dư âm vang xa).
Đây Chúa thiên tòa giáng sinh vì ta.
Người hỡi (hãy kịp bước tới), đến xem (nơi hang Bê lem)
Ôi Chúa giáng sinh khó khăn thấp hèn.
Nửa đêm mừng Chúa giáng sinh ra chốn gian trần
Người đem ơn phúc xuống cho muôn dân lầm than
1- Nơi hang Bê lem thiên thần xướng ca
Thiên Chúa vinh danh chúng nhân an hòa
2- Nơi hang Bê lem chiên lừa thở hơi
Tan giá đêm đông ấm thân Con Người.
3- Nơi hang Bê lem mục đồng xúm quanh
Ca hát vang lừng mến yêu chân thành.
4- Nơi hang Bê lem huy hoàng ánh sao
Đưa lối Ba Vua phương đông đến chầu
5- Nơi hang Bê lem ta quỳ thiết tha
Xin Chúa nhân hiền xuống ơn chan hòa





  CAO CUNG LÊN
Ngày 7 tháng 7 năm 2006 đã tắt đi một ngôi sao sáng trên vòm trời thánh nhạc Công giáo Việt Nam. Nhạc sĩ Hoài Đức, người mà hơn 50 năm trước đây cho chào đời những tác phẩm thánh ca mở đầu cho nền âm nhạc Công giáo Việt Nam, đã an nghỉ trong Chúa tại thành phố Saigon sau 83 năm tại thế. Tuy thể xác đi về cùng cát bụi nhưng tinh anh của ông vẫn còn lại mãi mãi cùng với những nhạc bản ông để lại cho người Công giáo Việt Nam, nhất là những bản nhạc giáng sinh được hát lên mỗi năm ngày kỷ niệm Chúa giáng trần.
Hoài Đức sinh ngày 1 tháng 7 năm 1923 tại xã Vĩ Nhuế phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (ngày nay là xã Yên Đồng, tỉnh Nam Hà). Xã Vĩ Nhuế cũng là nơi giáo quyền xây dựng Giáo Xứ Kẻ Nấp. Năm 1938 chú bé Hoài Đức tốt nghiệp Sơ Học Pháp Việt và vào Tiểu Chủng Viện Hoàng Nguyên cũng năm này. Sau 6 năm học tập, thầy Hoài Đức được cử về giúp xứ Bút Đông. Ngày 1 tháng 9 năm 1945, thày nhập Đại Chủng Viện Xuân Bích Hà Nội. Mới chưa được một tháng, nhân biến cố Quân đội Nhật tiến đánh Đông Dương, Quân đội Trung Hoa chiếm Đại Chủng Viện, các chủng sinh được lệnh tản cư. Tháng 9 năm 1946, Đại Chủng Viện mở cửa lại, thầy Hoài Đức cùng các bạn trở về tiếp tục tu học. Lúc bấy giờ, cha Bề trên và các linh mục giáo sư đại chủng viện đều là người Pháp. Công việc học hành chỉ mới tiến triển được 3 tháng thì phong trào toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Các linh mục người Pháp bị câu lưu. Các thầy được lệnh sơ tán về những địa phương xa Hà Nội. Thầy Hoài Đức trở về lại Bút Đông, giúp cha Trần Tiến Đức. Trong thời gian này thày lấy bút hiệu là Hoài Đức, theo thầy kể thì bút hiệu này là để tỏ lòng mến thương linh mục Trần Tiến Đức là cha bảo dưỡng.
Thời gian tản cư kéo dài từ tháng 12 năm 1946 tới tháng 10 năm 1948, sau đó thầy Hoài Đức trở về Đại Chủng Viện Xuân Bích để tiếp tục học 4 năm Triết học và Thần học. Vì mới tản cư về, thầy cần phải có căn cước, nên lấy tên là Lê đức Triệu, cũng nhân đó khai luôn bút hiệu Hoài Đức vào tờ căn cước. Không biết khi mới sinh ra, cha mẹ thầy đặt cho thầy tên gì, có tài liệu ghi là Lê Danh Hích (?).
Sau 4 năm học ở đại chủng viện, thầy Hoài Đức được lãnh nhận 4 “chức nhỏ”, nhưng vì bệnh suy tim nên Đức Giám mục Trịnh Như Khuê đã chỉ định thầy đi giúp xứ Kẻ Noi, rồi Sở Kiện... Vì tình hình chiến sự, thầy bỏ Sở Kiện tìm cách về lại Hà Nội. Niên học năm 1952, thầy được bổ nhiệm làm giáo sư Tiểu Chủng Viện Piô XII (ở Quần Ngựa), lúc ấy linh mục Nguyễn Huy Mai đang là Hiệu trưởng Trường Dũng Lạc, được thuyên chuyển về làm Giám Đốc Chủng Viện.
Rồi biến cố “chia đôi đất nước” ngày 20-7-1954 xảy đến. Ngày 18-7-1954, toàn bộ Tiểu Chủng viện Piô XII trong đó có thầy Hoài Đức, lên tầu di cư vào Nam. Địa chỉ sau cùng của Chủng Viện Piô XII là 223 Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn. Thầy Hoài Đức dạy giáo nhạc tại đây cho tới đầu niên học 1957 mới về lại Đại Chủng Viên Xuân Bích cũng đã di chuyển vào Nam và tọa lạc tại Thị Nghè. Sau khi hoàn tất chương trình “đào tạo linh mục”, ngày 6 tháng 6 năm 1960 thầy thụ phong linh mục và vẫn tiếp tục làm giáo sư kiêm giám luật tại Chủng Viện Piô XII.
Năm 1966, Chủng Viện Piô XII chấm dứt hoạt động theo lệnh Toà Thánh, cha Hoài Đức được thuyên chuyển lên Giáo phận Kontum làm giáo sư tại Tiểu Chủng Viện Thừa Sai, năm sau được bổ nhiệm phó Bề trên kiêm quản lý Chủng Viện. Hết niên học 1967-1968, cha được chuyển về Saigon đảm nhận chức vụ Thư Ký Thường Trực Ủy Ban Thánh Nhạc Toàn Quốc do đề nghị của Đức Cha Phạm văn Thiên đặc trách Phụng Vụ và Thánh Nhạc. Thánh 7 năm 1969, cha đã từ nhiệm chức vụ này và được thuyên chuyển lên Ban Mê Thuật làm quản lý tài sản Nhà Chung Ban Mê Thuật. Lúc ấy Đức Cha Nguyễn Huy Mai đang cai quản Giáo phận này. Ở đây cha Hoài Đức kiêm nhiệm Giám đốc Cơ quan Từ thiện Caritas, Chủ tịch phong trào Công lý và Hoà bình. Với những trách vụ kể trên, cha Hoài Đức đã cố gắng xây dựng các cơ sở giáo phận như tu viện, tập viện, nhà dưỡng lão, quán cơm xã hội, khai thác đồn điền cà phê, phân phối các phẩm vật cứu trợ...
Tháng 3 năm 1975, Cách mạng “giải phóng” Ban Mê Thuật, Đức cha Mai và cha Hoài Đức đã ở lại, không di tản. Thời gian này cả hai vị đã gặp rất nhiều khó khăn. Ngày 14 tháng 1 năm 1977 cha Hoài Đức khăn gói lên đường vào trại cải tạo Mê Văn Đặc Lắc. Ở trại này được vài tháng, cha được chuyển ra ngoài Bắc. Sau nhiều lần chuyển từ trại này qua trại khác, năm 1979 cha Hoài Đức cùng một số cha khác (khoảng 20 vị) “định cư” tại trại Thanh Cẩm Thanh Hoá. Tại trại này cha Hoài Đức bị bệnh “tai biến mạch máu não”, nhờ một bạn tù người Hoa chữa trị, bệnh thuyên giảm, nhưng sức khoẻ từ đó kém đi rất nhiều.
Tháng 11 năm 1987, cha Hoài Đức được thả về cùng với khoảng 50 bạn tù. Cha ngụ nơi nhà người em họ tại số 491 / 74A Lê văn Sĩ Phường 12 Quận 3 Saigon. Đây là nơi cha được chỉ định cư trú, theo lệnh chính quyền. Vào khoảng năm 1997, bệnh cũ lại bộc phát, cha bị á khẩu, toàn thân dần dần tê liệt và cha đã được chuyển về nhà Hưu Dưỡng Hà Nội (116 / 3 Hùng Vương, P.9, Q.5 Saigon) và mất tại đây.
***
Thánh ca Hoài Ðức
Những bài hát do Hoài Ðức sáng tác hầu như đã đi vào linh hồn người Công Giáo Việt Nam. Có lẽ không một tín hữu người Việt nào ngay từ nhỏ lại không mấp máy trên môi hay chưa từng thưởng thức những bài thánh ca bất hủ như Cùng Ði Bêlem, Mùa Ðông Năm Ấy, Dâng Mẹ, Cung Chúc Trinh Vương... đặc biệt là bản nhạc “Cao Cung Lên” - ca khúc đã đưa tên tuổi Hoài Ðức lên tột đỉnh. Nếu bên Âu Mỹ có những ca khúc bất tử về Giáng Sinh như Silent Night, Jingle Bell thì Việt Nam những “Ðêm Ðông” của Hải Linh và “Cao Cung Lên” của Hoài Ðức vẫn còn sống mãi trong lòng người.
Linh mục nhạc sĩ Hoài Ðức sáng tác thánh ca để đời không bằng số lượng mà là bằng chất lượng tác phẩm. Toàn bộ cuộc đời sáng tác của ngài chỉ có 91 bài. Tuy nhiên nhiều ca khúc của ngài luôn đi vào lòng người, luôn có giá vượt thời gian, vẫn luôn được nhà thờ dùng trong phụng vụ. Không có mùa Noel nào lại không nghe những lời ca du dương của nhạc sĩ Hoài Ðức, như:
Cao cung lên, khúc nhạc Thiên Thần Chúa, hòa trong làn gió, nhè nhẹ vấn vương...” (Cao Cung Lên)
hay “Kìa trông huy hoàng vì sao chiếu soi gần xa khắp miền...” (Cùng Ði Belem)
hoặc “Mùa đông năm ấy, sao sáng soi cuối trời, Mùa đông năm ấy Con Chúa sinh xuống đời...” (Mùa Ðông Năm Ấy)...
Và trong các buổi chầu Thánh Thể, ta luôn luôn nghe được lời cầu xin cho Ðức Giáo Hoàng: “Này Con Là Ðá”. Thậm chí bài sáng tác đầu tiên của ngài “Thánh tâm Giêsu vua đất Việt” sáng tác năm 1945 trong hoàn cảnh chinh chiến, ngày nay vẫn còn nhiều nơi sử dụng.
Nhạc sĩ Hoài Ðức đặc biệt có lòng tôn kính Ðức Mẹ, đã dành tới 18 sáng tác về Ðức Mẹ.
Quá trình sáng tác của Hoài Đức có thể chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Những ca khúc ngẫu hứng (1945-1949), dù mang tính ngẫu hứng nhưng có những bài ca xuất thần, giá trị vượt thời gian như bài Thánh Tâm Giêsu Vua Ðất Việt, Thiếu Nhi Công Giáo Việt Nam, Cung Chúc Trinh Vương, Ðêm Ðông Âm U... đặc biệt là nhạc phẩm Cao Cung Lên (Giáng Sinh 1945).
Giai đoạn 2: Những ca khúc bài bản (1950-1975), điệu nhạc giản dị, hướng hẳn về bình ca, lời ca lấy từ sách kinh nguyện, Thánh Kinh, Ca Vịnh. Những bài ca nổi tiếng: Bí Tích Nhiệm Mầu, Ngắm Mình Thánh Chúa, Thờ Lạy Chúa... và những ca khúc về Ðức Mẹ.
Giai đoạn 3: Những ca khúc thầm (1977-1987) viết trong thời kỳ ngài bị giam tù, sáng tác chuyển hẳn sang thể loại hợp xướng. Có thể kể một số bài: Cho Ðến Bao Giờ (Ca Vịnh 12), Con Thức Trông Cậy Chúa (CV 62); Hỡi Toàn Cầu (Thánh Vịnh 99), Lạy Chúa Ðừng Trách Mắng Con (TV 6); Nếu Chúa Không Ơn Lại (TV 123), Ngồi Bên Bờ Sông Babylon (TV 136)... Hầu hết những bài thánh ca hợp xướng sáng tác trong giai đoạn này chưa được phổ biến, còn xa lạ với giáo dân.
Phỏng vấn tác giả “Cao Cung Lên” thực hiện năm 1996 do nhà thơ Lê Đình Bảng:
PV: Cao Cung Lên là một hiện tượng, một trong những bản thánh ca Giáng Sinh được nhiều người biết, hát thuộc lòng và mến mộ nhất. Cha có thể cho biết thời gian sáng tác và cảm hứng lúc ấy?
Linh mục Hoài Ðức (Lm. HÐ): Năm 1945, đại chủng viện Xuân Bích tạm đóng cửa, vì quân đội Trung Hoa trưng dụng cơ sở chủng viện để đóng quân, các chủng sinh phải sơ tán về nhà quê, địa phương gần đó. Tôi về Bút Ðông (Nam Ðịnh), xứ sở của linh mục bảo dưỡng tôi là Linh mục Trần Tiến Ðức, và qua Noel năm 1945 ở đó. Cũng chính thời kỳ đó, tôi bắt đầu tập tễnh làm quen với sáng tác thánh ca. Một lần, tôi cùng với cộng đoàn giáo hữu đọc kinh chiều và làm giờ viếng hang đá vừa xong, giữa lúc mọi người về thì hồi chuông nguyện nổi lên. Lúc ấy tôi cũng đang bước trên bậc thang từ trên nền nhà thờ xuống sân bên ngoài, bỗng nhiên trong trí óc tôi nảy ra một cung điệu phảng phất âm thanh của tiếng chuông đang ngân vang trên tháp chuông. Tôi liền bước chậm lại và thả hồn theo tứ nhạc đó, khi xuống tới sân nhà thờ thì trong trí óc đã hình thành xong đoạn điệp khúc Cao Cung Lên. Ngay lúc đó, tôi về phòng riêng chép lại điệp khúc đó và phiên khúc 1 của bài hát thì nguồn cảm hứng tắt ngấm. Tôi liền đưa bản nhạc cho Nguyễn Khắc Xuyên xem, vì Nguyễn Khắc Xuyên cũng đang ở Bút Ðông. Nguyễn Khắc Xuyên khen tứ nhạc hay và hợp với bầu khí Noel, liền nhận lời đặt mấy phiên khúc sau. Nên người nào tinh ý sẽ nhận thấy ngay văn phong của những phiên khúc sau có đôi chút khác với văn phong của điệp khúc và phiên khúc 1.
PV: Ðấy là trang mở đầu của những bài thánh ca bằng tiếng Việt. Như vậy, thưa cha, trong điều kiện còn manh nha, việc khơi dòng thật khó. Vậy chứ, trường hợp và động cơ nào thúc đẩy cha đến với thánh nhạc, thánh ca?
Lm. HÐ: Có thể nói là hoàn toàn ngẫu nhiên. Suốt 6 năm tu học ở tiểu chủng viện Latinh Hoàng Nguyên, tôi không có gì xuất sắc về âm nhạc. Cũng có được tập đàn harmonium vài năm, sau vì kém mắt nên xin thôi. Tiếng thì khàn khàn, đục đục, lại ương ương, không thể hát hay được. Năm 1945, vì thời cuộc phải tạm nghỉ học triết lý ở đại chủng viện Xuân Bích, tôi về với cha nuôi xứ Bút Ðông, có Nguyễn Khắc Xuyên vốn quen biết Hùng Lân rồi. Tôi chưa có ý niệm gì về việc sáng tác nhạc cả. Nhưng chỉ có tấm lòng ước ao khao khát hòa bình cho đất nước, trước mắt là mong có hòa bình để mau được về tiếp tục học tại đại chủng viện. Với tâm tình đạo đức cầu nguyện đó, và với cái vốn ít ỏi hiểu biết về nhạc lý cộng với chút hiểu biết sơ đẳng về tư tưởng thần học, tôi nghêu ngao mấy câu để cầu nguyện xin Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu ban cho đất nước Việt Nam được hòa bình. Khi đã thành hình một bài hát, tôi ghi lại và đem gởi cho anh Hùng Lân làm lễ ra mắt để xin gia nhập nhạc đoàn. Cũng vì thế mà lúc đầu bài hát ấy như sau: “Giêsu, dưới chân Chúa con sấp mình, muôn vàn thiết tha dâng lòng thờ kính. Lòng còn tha thiết tháng năm sống đời an ninh. Chúa ơi nỡ tâm ngoảnh mặt làm ngơ sao đành.” Ðến sau tôi phải sửa lại thế này: “Giêsu, chúng con tới đây sấp mình, chân thành dâng Chúa tấm lòng thờ kính, đoàn con mong ước tháng năm sống đời an ninh, Chúa ơi hãy ban xuống cho Việt Nam thanh bình.”
Ðược anh Hùng Lân khích lệ và chỉ dẫn dần dần, tôi bước vào con đường sáng tác từ đấy, nhưng vẫn không có ý sống trong âm nhạc, và chỉ sáng tác những khi nào có hứng thực về chủ đề nào này ra trong trí óc, và tâm hồn sống với chủ đề đó. Không ham muốn sáng tác nhiều bài.
PV: Cha có thể phác họa lại hoàn cảnh lịch sử và những năm đầu của thánh nhạc, thánh ca Việt Nam?
Lm. HÐ: Có khi phải lấy thời điểm năm 1940. Trước thời điểm đó chưa có thánh nhạc Việt. Khi nói đến thánh nhạc là phải nói đến những bài hát trong phụng vụ. Mà tất cả nền phụng vụ bấy giờ đều được cử hành bằng tiếng Latinh. Thánh Lễ, chầu Thánh Thể phải đọc hay hát bằng tiếng Latinh. Những bài hát đều lấy từ cuốn Paroissien Romain hay cuốn Cantus Pro Festis Solemnioribus, hoặc là cuốn Cantus Officiorum in Cantus Gregoriano, và trong giờ chầu Thánh Thể thì hát những bài in trong sách Cantus Selecti Ad Bennedictionem, hoặc cuốn Cantus ad Bennedictionem (quen gọi là cuốn Biton). Ðôi khi được hát những bài không phải là tiếng Latinh thì hát bài bằng tiếng Pháp, chủ yếu là lấy trong cuốn Cantiques de la Jeunesse. Còn những bài hát bằng tiếng Việt thì chưa có, hay nói cách khác là chưa có ai làm ra cả. Trong miền Nam có cha Phaolô Quy và Phaolô Ðạt có làm một ít bài: “Thanh niên với Ðức Mẹ”, “Thanh niên với Chúa Hài Ðồng”, tập cho các chủng sinh Latinh Hoàng Nguyên, hát được một vài lần rồi cũng rơi vào quên lãng.
Năm 1943 hay 1944, có một linh mục cao tuổi, quen gọi là Cha Già Vượng, ở xứ Nam Ðịnh, một mình đã cho ấn hành những 10 cuốn thánh ca, gồm có những bài ca lấy cung điệu ở những bài ca tiếng Pháp, hay tiếng Latinh, còn lời ngài đặt bằng tiếng Việt Nam, giọng văn đơn sơ, mộc mạc, đã được phổ biến mạnh trong một thời gian.
Còn kể đến bài hát bằng tiếng Việt Nam mà chưa được hát chính thức trong nhà thờ thời ấy, là bộ Vãn Dâng Hoa, được các hội dâng hoa các nơi sử dụng trong mùa hoa Tháng Năm. Nhưng không phải là các bài thánh ca phụng vụ, chỉ hát để dâng hoa kính Ðức Mẹ. Có nhiều bộ Vãn Dâng Hoa, ở địa phận Hà Nội thì khác, ở Bùi Chu thì lại khác. Có khi trong một địa phận, mỗi xứ hát một hay hai Vãn Dâng Hoa khác nhau, đặc biệt về ngôn từ và cung điệu.
Tóm lại, các nghi lễ thời ấy đều làm bằng tiếng Latinh, với linh mục chủ tế trên bàn thờ, còn giáo dân chỉ biết đọc kinh, ngắm lễ bằng tiếng Việt, chứ hát lời kinh bằng tiếng Việt thì chưa có, ngoại trừ Ca Vãn Dâng Hoa.
Rồi vào năm 1940 trở đi, đã xuất hiện những ca khúc Việt Nam hoàn toàn, nghĩa là do người Việt Nam soạn cả phần nhạc và lời, như Lê Thương với bài Ðàn Xuân, Ðặng Văn Hân với bài Men Cùng Sườn Non, Thẩm Oánh với bài Tâm Hồn Anh Tìm Em, rồi tới những bài hát hướng đạo của nhóm Hoàng Quý, như Trên Sông Bạch Ðằng, Lửa Rừng Ðêm, Nhớ Quê, tiếp những bài ca ái quốc như Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước, Tiếng Quân Ca của Văn Cao, nung nấu lòng yêu nước của mọi người nhất là những thanh niên có học. Ðang lúc ấy, Hùng Lân với Thiên Phụng là những thanh niên vào lứa tuổi 20, đã nghĩ ngay đến việc tập hợp một số anh em để thành lập một nhạc đoàn chuyên soạn ra những bản thánh ca hoàn toàn Việt Nam thay cho những bài thánh ca tiếng nước ngoài như trước, thể hiện tinh thần dân tộc độc lập tự do của người Việt Nam, nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ra đời từ đó.
PV: Cha có thể nhớ lại một số tác phẩm mà cha đã sáng tác từ thủa ban đầu cho đến ngày hôm nay?
Lm. HÐ: Vì có chủ trương không ham sáng tác nhiều nên tôi nhớ mang máng con số những bài hát tôi sáng tác chỉ vào chừng 80 bài thôi; còn một số bài tôi đã nháp rồi thấy không ưng ý hay không thích nữa thì tôi bỏ luôn, cũng vào khoảng ba bốn chục bài nữa. Tôi nói thêm rằng: Thời gian sáng tác nhiều nhất là thời gian học ở đại chủng viện, “ăn cắp” giờ học riêng để làm bài hát. Nhưng luật chủng viện không cho phép, các cha giáo sư nghiêm ngặt về vấn đề đó, thậm chí đã có cha giáo khám túi chủng sinh xem có tờ giấy nháp nào về bài hát không. Ðến khi làm linh mục rồi, ra làm việc mục vụ thì rất ít có cơ hội để sáng tác cho ra hồn nữa. Ðó là kinh nghiệm của riêng tôi thôi.
***
Qua chính lời tác giả bài hát Cao Cung Lên vừa kể trên, chúng ta được biết nhạc bản danh tiếng này được thành hình ra sao và trong trường hợp nào. Hoài Đức cũng cho chúng ta một thoáng nhìn về tình hình giáo nhạc Việt Nam thời kỳ phôi thai với nỗ lực ban đầu của những cây đại thụ trong làng âm nhạc Công giáo như Hùng Lân, Nguyễn Khắc Xuyên…, chính nhờ những vị này, cũng như nhờ Hoài Đức, trong vai trò những người tiền phong, mà ngày nay người Công giáo Việt chúng ta mới có được một nền âm nhạc phong phú dùng trong phụng tự.
Hoài Đức không còn nữa, nhưng những bản thánh ca cha để lại vẫn còn được hát lên hầu như mỗi ngày nơi các thánh đường Công giáo trong và ngoài nước. Riêng nhạc bản “Cao Cung Lên” vẫn còn vút bay như những tiếng chuông vang, như những nốt nhạc của các vị thiên thần Chúa trong ngày lễ giáng sinh đầu tiên, và chắc sẽ còn mãi mãi ngân vang mỗi năm khi mùa lễ Giáng sinh trở lại.
Cao Cung Lên
Cao cung lên khúc nhạc thiên thần Chúa
Hòa trong làn gió nhè nhẹ vấn vương.
Ôi linh thiêng lắng nghe thoang thoảng cung đàn
Một đêm khuya vang vẳng trong tuyết sương
Đàn ơi cứ rung những điệu réo rắt:
Hát khen Con Một Chúa Trời, rày sinh xuống cõi đời
Hỡi người dương thế lặng nghe cung đàn
Mau tìm cho tới thờ kính Vua giáng trần.
1. Thôi hỡi trần gian im tiếng đi mà cung kính.
Chúa Con sinh ra trong máng cỏ hang lừa.
Tuy Chúa là Vua muôn nước suy phục tôn kính.
Chúa bỏ ngai vàng sinh xuống trần đêm xưa.
2. Thôi hỡi ngàn mây đen xám u mờ tăm tối.
Hãy mau tan đi nay Chúa đã xuống đời.
Trên cõi trời cao, sao sáng chân thật đưa lối.
Hãy mang tin lành cho nhân loại nơi nơi.
3. Thôi hỡi trần gian bao tuyết sương cùng gió rét.
Cớ sao nỡ làm cho Chúa lạnh vô ngần.
Ôi Ðấng Toàn Năng xưa quá yêu người tha thiết.
Xuống chịu khổ hèn trên tuyết ngàn dặm sương.
4. Thôi hỡi hồn tôi ghi nhớ trong lòng sâu thẳm.
Chúa sinh đêm nay nên bé nhỏ khó hèn.
Con quyết từ nay yêu Chúa trong tình đằm thắm.
Muốn để đền bù lại cõi đời bạc đen.
Phụng Nghi

(Nguồn : simonhoadalat.com)