Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

CHÙA TRẮNG THÁI LAN



Với màu trắng tinh khiết và lối kiến trúc độc đáo, ngôi chùa đã trở thành biểu tượng văn hóa của đất nước Phật giáo Thái Lan.



Nằm ở Ban Rong Khun, cách trung tâm thành phố Chiang Rai ở miền Bắc Thái Lan 13km về phía Nam, Wat Rong Khun hay Chùa Trắng là một công trình tôn giáo mới được xây dựng những năm gần đây.

Với màu trắng tinh khiết và lối kiến trúc độc đáo, ngôi chùa đã trở thành biểu tượng văn hóa của đất nước Phật giáo Thái Lan.


Người thiết kế ngôi chùa là Chalermchai Kositpipat - một họa sĩ kiêm kiến trúc sư Thái Lan, người đã ấp ủ ý nguyện xây dựng một ngôi chùa chỉ toàn màu trắng để biểu trưng cho sự thanh cao của đạo Phật.


Từ năm 1997, khi chọn được khu đất rộng chừng 3ha tại tỉnh Chiang Rai, Chalermchai đã bắt đầu hiện thực hóa ý tưởng của mình với công trình Wat Rong Khun.


Sau gần 2 thập niên xây dựng, Wat Rong Khun đã hiện ra trong một màu trắng tinh khôi, cùng sự pha trộn kỳ lạ của kiến trúc truyền thống và siêu thực, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với những ai đến đây.


Về tổng thể, Wat Rong Khun giống như một công trình hiện ra từ thế giới cổ tích với những đường nét kiến trúc huyền ảo.


Để đi đến gian chính điện của ngôi chùa, du khách sẽ phải đi qua một cây cầu đặc biệt, phía bên dưới là hàng trăm bàn tay đang vươn lên cao.


Những bàn tay này là tượng trưng cho vô số linh hồn trầm luân trong bể khổ đang khát khao được giải thoát. Cây cầu đi trên những bàn tay là biểu tượng của sự vượt qua kiếp luân hồi để đi tới cõi Niết bàn.


Bao quanh ngôi chính điện là các hồ cá nằm giữa thảm cỏ xanh, nơi đặt những tác phẩm điêu khắc được chính họa sĩ Chalermchai thiết kế.


Mỗi bức tượng là một biểu tượng mang ý nghĩa tâm linh khác nhau của người Thái.


Các họa tiết trang trí trên mái ngôi chùa được tạo tác rất kỳ công.


Những tấm gương này tượng trưng cho trí tuệ của Đức Phật “sáng chói khắp thế giới và lan ra toàn vũ trụ”.


Không chỉ có vẻ ngoài ấn tượng, Wat Rong Khun còn gây bất ngờ với cách bài trí bên trong. Thay cho những hình ảnh Phật giáo truyền thống, các tác phẩm nghệ thuật đương đại đã được vẽ lên các vách tường. Những bức tranh này thể hiện nhiều biểu tượng văn hóa đại chúng như siêu nhân, phi thuyền… và cả những sự kiện quốc tế nóng bỏng như vụ khủng bố 11/9.


Những tác phẩm này như nhắc nhở người xem về tính chất vô thường, bất ổn và đầy khổ ải của thế giới, mà con người chỉ có thể vượt qua để đạt được hạnh phúc bằng con đường của Phật.


Đến thời điểm hiện tại, dù diện mạo của Wat Rong Khun đã định hình khá rõ nét nhưng ngôi chùa vẫn còn đang trong giai đoạn xây dựng và sẽ tiếp tục được hoàn thiện trong nhiều năm tới.


Theo kế hoạch, khi hoàn thành, toàn thể công trình sẽ gồm 9 tòa nhà bao gồm chính điện, chùa, bảo tàng, hội trường tu viện, nơi giảng dạy, gian hàng cùng các phòng tiện nghi được xây dựng trên tổng diện tích 12.000m vuông.


Đây sẽ là một trung tâm thiền định, nơi mọi người có thể học tập và thực hành Phật giáo, thấm thía lời dạy của Đức Phật.


Dù chưa xây xong, Wat Rong Khun đã trở thành một ngôi chùa nổi tiếng thế giới, thu hút hàng trăm nghìn lượt khách tham quan mỗi năm.



Đây sẽ là điểm đến không thể bỏ qua đối với du khách ghé thăm đất nước Thái Lan.


                                                                                                (Nguồn : kienthuc.net.vn)


Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

HÃY BIẾT MÌNH

Suy Niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay Năm A

Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: "Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!". Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: "Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Ðó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!". Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.
Ðó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Ðúng như cha ông ta vẫn nói:
"Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".
Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Ðó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Ðấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.
Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Ðó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Ðó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:
Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.
Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.
Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.
Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.
Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.
Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.
Ðó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Ðó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.
Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen.

Jos Tạ duy Tuyền
(Nguồn : catholic.org.tw)

Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

HÃY XÉ LÒNG !


                                                                    TGM Ngô Quang Kiệt

         Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao.  Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện.  Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết.  Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi.  Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi.  Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.  Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi.  Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông.  Thày trò hăng hái lên đường.  Đường càng lên càng dốc dác khó đi.  Mặt trời càng lúc càng nóng gắt.  Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước.  Nhưng không ai dám uống.  Em bé không dám uống trước khi thày uống.  Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa.  Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống.  Lúc ấy cô bé mới dám uống.  Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.  Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi.  Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình.  Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện.  Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

        Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt.  Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh?  Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.

        Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình.  Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.

       Xức tro là để tỏ lòng sám hối.  Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì.  Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta.  Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn.  Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi.  Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa.  Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta.  Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.

        Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ.  Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm.  Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em.  Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác.  Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em.  Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau.  Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc.  Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.

       Chính vì thế mà tiên tri Joel đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo".  Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra.  Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối.  Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa.  Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.

       Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể.  Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai.  Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.

       Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa.  Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay.  Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.

        Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.

                                                                 TGM Ngô Quang Kiệt
                                                                (Nguồn : memari.org)


Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

HIỂU THẾ NÀO VỀ ĂN CHAY?

Nên hiểu thế nào về " Ăn chay kiêng thịt "PDF.InEmail
Viết bởi Không tên   

             Trong những ngày này, người Công giáo đang sống trong những ngày gọi là "Mùa Chay". Mùa Chay kéo dài 40 ngày, bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro. Mùa Chay là mùa hy sinh hãm mình, thanh tẩy tâm hồn, canh tân đời sống để chuẩn bị tâm hồn kỷ niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô và mừng Đại Lễ Phục Sinh.
             Chữ "CHAY" nơi đây hiểu theo một nghĩa hơi khác với ý niệm "CHAY" của một số tôn giáo khác. Như bên Phật giáo, chữ "CHAY" có nghĩa là "không ăn thịt", chỉ ăn rau, hoa trái. "Chay trường" là kiêng ăn thịt suốt đời, hoặc trong một thời gian lâu dài; hoặc ăn chay theo ngày như 'mùng một và ngày rằm". Vì thế có danh từ "ĂN CHAY" và "ĂN MẶN". Có những trường phái hoặc những người chủ trương "ăn chay" (vegetarian) để chữa bịnh, hoặc để tu luyện, như những tu sĩ nam nữ trong các dòng khổ tu Công giáo, như "Châu Sơn", "Phước Sơn", dòng tu Camêlô.v.v…
           Chữ "chay" bên Công giáo hiểu là "ăn ít đi", ngày ăn chay là ngày chỉ ăn một bữa chính và một bữa ăn nhẹ, và không ăn "vặt" giữa các bữa ăn, trừ những vị đã già nua, hoặc những người bệnh tật. Còn "kiêng thịt" mới là ngày không ăn thịt. Ngày xưa, người Công giáo không ăn thịt ngày Thứ Sáu suốt năm để kỷ niệm ngày Chúa Giêsu chịu chết trên Thập tự giá để chuộc tội nhân loại. Bây giờ chỉ còn "Kiêng thịt ngày Thứ sáu trong Mùa Chay". Tuy nhiên nhiều người vẫn kiêng thịt ngày Thứ Sáu quanh năm, có người kiêng thịt ngày Thứ Sáu và ngày Thứ Tư trong tuần.
           Trong Mùa Chay, người Công giáo chỉ buộc vừa ăn chay (chỉ buộc những người từ 18 tuổi đến 59 tuổi), vừa kiêng thịt (chỉ buộc những người từ 14 tuổi trở lên), trong hai ngày là ngày "Thứ Tư Lễ Tro" (ngày mở đầu Mùa Chay Thánh) và ngày "Thứ Sáu Tuần Thánh" (ngày đặc biệt kỷ niệm của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu). Những người đau ốm hoặc quá già nua tuổi tác thì không phải giữ những lề luật trên đây.

           Như vậy so với các tôn giáo bạn, thì lề luật "ăn chay", "kiêng thịt" của Giáo hội Công giáo rất là nhẹ nhàng. Lý do, vì Giáo hội coi các lề luật, kể cả đi dâng lễ ngày Chúa Nhật, chỉ là những "hướng dẫn cụ thể" để mọi người tùy theo hoàn cảnh, tuổi tác tự làm lấy những công việc đó một cách tự nguyện do đức tin chân thành và lòng yêu mến Chúa, chứ không chỉ làm vì sợ tội, sợ hình phạt. Giống như những người con hy sinh thời giờ đến thăm cha mẹ, hoặc giữ những lời chỉ bảo của cha mẹ, vì lòng hiếu thảo, yêu mến cha mẹ, chứ không chỉ vì sợ cha mẹ la mắng, hoặc cha mẹ ghét bỏ. Đó là thái độ "sống đạo trưởng thành", với tấm lòng, với tình yêu thương, chứ không phải chỉ vì sợ tội. Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Hơn nữa, Mùa Chay không phải chỉ gồm có ăn chay, kiêng thịt, mà quan trọng ở chỗ "hy sinh hãm mình", tập luyện ý chí để tự kiểm soát con người của mình (self-control) không bị "danh, lợi, thú" điều khiển cuộc đời của mình.
           Như vậy Mùa Chay là thời gian đặc biệt để mọi người tự thanh luyện con người của mình, làm mới lại con người của mình. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần giúp đỡ để canh tân đời sống. Thực ra đó là những điều mỗi người chúng ta đều phải làm hàng ngày để cải thiện con người của mình, để mỗi ngày trở nên tốt hơn, mới hơn (tân nhật tân); hôm nay phải cố gắng để "mới hơn hôm qua". Đó là một cuộc hành trình đức tin để tiến lên gần Thiên Chúa là Đấng Chân Thiện Mỹ… Mỗi ngày chúng ta tiến gần cái chết hơn, đến gần nấm mồ của chúng ta hơn, và cũng là tiến gần đến với Chúa hơn. Con đường sống đạo là con đường đi lên, vươn lên mãi mãi.
            Một cách cụ thể, trong Mùa Chay, mỗi người thường được nhắc nhở phải cầu nguyện nhiều hơn, ăn chay hãm mình nhiều hơn; nhưng phải đưa đến hiệu quả là "sống bác ái, vị tha" hơn, qua các công việc từ thiện, giúp đỡ những người nghèo khó trên thế giới, thường được gọi là "làm phúc, bố thí". Danh từ "bố thí" bây giờ không còn được dùng; vì làm việc từ thiện là một "chia sẻ" trong tình nhân loại, chứ không phải là việc "bố thí" ban phát của người giàu cho người nghèo.
           Thật vậy, thánh Phao-lô nói: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,3).

           Theo tinh thần câu Kinh Thánh này, nếu tôi ăn chay, hãm mình, thậm chí làm ân làm phúc, bố thí cho người khác, không phải vì tình yêu thương, mà vì một động lực nào khác, như để được tiếng khen là ngoan đạo, hay chỉ để chu toàn luật Giáo Hội một cách nô lệ, sợ sệt (nghĩa là một cách miễn cưỡng, không làm thì sợ bị Chúa phạt), để không bị ai chê mình là khô đạo, là thiếu đạo đức, v.v… thì việc ăn chay đó chẳng mấy đẹp lòng Thiên Chúa, chẳng có giá trị lắm trước Thiên Chúa.

           Thật vậy, nhiều Kitô hữu ăn chay chỉ vì luật buộc, nên việc ăn chay của họ chỉ hoàn toàn là hình thức. Ngày thứ ba trước đó và thứ năm sau đó, họ ăn cho thật nhiều, thật ngon, thật bổ, để bù cho việc nhịn ăn ngày thứ tư. Vì thế, thứ ba đó gọi là «thứ ba béo» (mardi gras). Việc ăn bù trước và sau thứ tư lễ tro khiến cho lượng thực phẩm và chất bổ ăn trong ba ngày đó còn cao hơn ba ngày bình thường khác cộng lại.

          Nếu ăn chay chỉ vì luật Giáo Hội buộc phải ăn chay, thì như thế là ăn chay vì lề luật chứ không phải vì tình yêu. Điều đó không làm cho ta nên công chính trước mặt Thiên Chúa chút nào. Thánh Phao-lô viết: «Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Kitô và mất hết ân sủng» (Gl 5,4). Nếu ăn chay chỉ vì Giáo Hội buộc phải ăn chay, thì ta sẽ chỉ ăn chay một cách hình thức, lấy lệ, không có nội dung tinh thần. Việc đi dâng lễ các ngày Chúa Nhật cũng vậy: nếu chỉ đi lễ để khỏi lỗi luật Giáo Hội, để khỏi mắc tội trọng, chứ chẳng phải đi vì yêu mến Thiên Chúa, thì giá trị việc đi lễ ấy trước mặt Thiên Chúa thật là ít!
         Ăn chay, theo nghĩa đen, chính là tự nguyện nhịn ăn hoàn toàn hay ăn ít hơn bình thường. Ăn chay, theo nghĩa rộng hơn, không chỉ là tự nguyện nhịn ăn, mà còn là tự nguyện nhịn tiêu xài ăn mặc, chấp nhận sống kham khổ hơn, thiếu thốn hơn. Như thế việc ăn chay sẽ khiến ta dư ra một chút tiền hay chút thức ăn. Chút tiền hay thức ăn dư ra ấy nên dùng làm gì? Nếu ta lại cất tiền hay thức ăn ấy vào tủ để mai mốt đem ra dùng, thì việc ăn chay ấy có ích lợi cho ai đâu! Ăn chay như thế thì chẳng phải vì yêu thương chút nào! Ăn chay như thế có khác nào một hành vi tiết kiệm hay hà tiện? Số tiền hay thức ăn tiết kiệm được do ăn chay cần được dành để lo việc Chúa, việc Giáo Hội (như truyền giáo, nâng đỡ đời sống các giáo lý viên, những người tình nguyện không công phục vụ nhà thờ…), để xây dựng xã hội (lập các bệnh viện, trường học, cơ sở từ thiện…) hay cho việc giúp đỡ tha nhân (những người nghèo khổ, bệnh tật, tàn tật…). Có như thế, việc ăn chay mới có ý nghĩa bác ái, yêu thương, và nhờ vậy trở nên giá trị hơn trước Thiên Chúa.

            Thiết tưởng trong thời đại chúng ta – con người trở nên rất gần nhau nhờ những phương tiện giao thông và truyền thông hết sức tân tiến – việc ăn chay phải mang chiều kích xã hội và Giáo Hội hơn bao giờ hết.
            Nói cách khác, việc ăn chay phải nhằm xây dựng Nước Trời ở trần gian này, nghĩa là phải biến việc ăn chay thành một phong cách sống nhằm xây dựng xã hội hay Giáo Hội ngày càng tốt đẹp hơn, càng có nhiều công lý và tình thương hơn.
                                                                                                          (Nguồn : vinhduc.org)

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

THƠ


Để nhớ một cựu huynh trưởng , một cựu học sinh Gioan XXIII ĐN 
mất cách đây vài tháng . 

BÓNG KHUẤT

Ta mơ thấy ai về chập chờn kí ức .
Lãng đãng mây chiều vội tím hòang hôn .
Nắng tàn, muộn màng day dứt ,
Bờ vai rung – phiền muộn
Lóng lánh giọt sương đêm .
Vành trăng khuyết lửng lơ
Một mình chơ vơ .
Như mảnh thuyền trôi đơn độc .
Thóang chốc .
Sóng cồn cào vỗ giấc bình yên .
Vành trăng nghiêng
Ánh vàng soi bóng khuất .
Trong tận cùng ký ức ta nhớ anh .
                            




TA ĐÃ MẤT NHAU

Gởi lời vĩnh biệt anh dù đã muộn
Tưởng lặng im rồi sẽ bình yên .
Bao giờ cho tôi quên .
“ Cường tươi trẻ Cường hồn nhiên kể chuyện “ *
Chuyện khóc , chuyện cười , chuyện trên trời dưới đất
Chân thật hiền lành
Đời mong manh đến vậy .
Đêm thăm thẳm lạnh lùng giây phút cuối
Lặng người ;
Ta đã mất nhau .
Chẳng có kiếp sau làm sao mà gặp lại
Vẫn mãi một đời ta chắc nợ gì nhau .
                              
                                4/11/2013
                             Augusta. USA


 *Xin phép mượn câu thơ của Khải Minh 

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014

BÀ SƠ ĐI THI HÁT ROCK Ở ITALIA

HÃY DÙNG ƠN CHUÁ BAN CHO MÌNH ĐỂ PHỤC VỤ NGƯỜI KHÁC


                        soeur
https://www.youtube.com/watch?v=TpaQYSd75Ak#t=10

Tân phúc âm hoá? 
Bà Sơ đi thi chương trình tiếng hát "Voice" ở Italia
                                                                Trần Mạnh Trác  3/21/2014

        Có ai đã từng coi phim "The Singing Nun" (1966, Bà Sơ Ca Hát) chưa? cuốn phim nổi danh do nữ tài tử Katharine Ross thủ vai chánh kể lại chuyện Sơ Sourire dòng Đa Minh ở nước Bỉ (tên thật là Jeanine Deckers, tên dòng là Sơ Luc Gabrielle) đã sáng tác ra bài hát bán chạy nhất là bài "Dominique".
       Và có ai đã từng coi 2 phim Sister Act (1992) do nữ tài tử da đen Whoopi Goldberg thủ vai chưa? bộ phim kể chuyện một thiếu nữ bụi đời bị bọn côn đồ săn đuổi, đã chạy lộn vào một dòng tu và phải giả dạng là một bà Sơ. Bà Sơ giả này sử dụng sở trường cuả mình (hát nhạc rock) trong nhà thờ và đã lôi kéo khá đông những bọn 'choi choi' đi dự lễ.

soeur 1
        
           Ngày hôm qua (19 tháng 3), đã xuất hiện một bà Sơ Ca Sĩ mới. đây là một bà Sơ 'bằng xương bằng thịt', 'chính hiệu con nai vàng' chứ không phải là một tài tử già dạng đâu. đó là Sơ Cristina Scuccia, 25 tuổi người gốc Sicilia, nữ tu dòng Ursuline, là một dòng chuyên lo việc giáo dục các thiếu nữ.
       Sơ Cristina đã dự thi cuộc tuyển lựa ca sĩ có tên là "The Voice of Italy," (Giọng Hát Cuả Nước Ý ), là một cuộc thi tuyển ca sĩ giống như các cuộc thi "American Idol" ở bên Mỹ hay là "Britain’s Got Talent" ở bên Anh. Cùng đi với Sơ có cha mẹ và bốn nữ tu cuả nhà dòng.
       Không như cách thức cuả cuộc thi "American Idol", "The Voice of Italy" có một hình thức giống như các cuộc tuyển lựa ca sĩ bên VN, nghĩa là các giám khảo quay lưng không nhìn người ca sĩ, và chỉ quay ghế lại khi mà ông ta hay bà ta quyết định chấm điểm chấp nhận.
       Cả bốn giám khảo đã xoay mặt lại, là một trường hợp hiếm có. Và hơn thế nữa, cả bốn giám khảo đã xoe tròn đôi mắt, há hốc miệng ra, khi nhìn thấy người ca sĩ đang hát bài "No One" (không ai) cuả Alicia Keys là một bà Sơ mặc áo chùng thâm.

soeur 4[8]
       
         Bài hát "No One" là một bài ca diễm tình đang thịnh hành, diễn tả tâm sự hoàn toàn tín thác với người yêu như: 

"Anh và Em, chúng ta ở cùng nhau ngày đêm. Em không lo sợ bởi vì mọi sự sẽ trở thành tốt đẹp, người ta có thể nói gì thì nói, nhưng em chỉ biết rằng mọi sự sẽ tốt đẹp."You and me together
Through the days and nights
I don't worry 'cause
Everything's going to be alright
People keep talking they can say what they like
But all I know is everything's going to be alright


       Cả hội trường hầu như muốn xập vì những tiếng vỗ tay reo hò tán thưởng nồng nhiệt.
       Dĩ nhiên "Anh" ở đây, đối với Sơ Cristina là chính Chuá Giêsu.
       Bốn giám khảo của chương trình là các ca sĩ Ý Raffaella Carra, nam ca sĩ J- Ax, Noemi, và Piero Pelu.
       Nhiều giám khảo đã xúc động đến rơi nước mắt, Ca sĩ Carra hỏi Sơ Cristina có thực sự là một nữ tu không, và lý do tại sao Sơ đã quyết định tranh tài trong chương trình này.
" Vâng, tôi thực sự, thực sự là một nữ tu, " Sơ Cristina trả lời.
"Tôi đến đây bởi vì tôi có một món quà và tôi muốn chia sẻ món quà đó cho mọi người. Tôi đến đây để rao giảng Tin Mừng."
       Theo thể thức, sau được sự sự chấp thuận của ban giám khảo, người thi đậu sẽ chọn nhóm cuả một giám khảo để tham gia vòng kế tiếp.
        Sơ Cristina đã chọn nhóm cuả anh J- Ax " vì tôi tự nói với mình rằng tôi sẽ chọn người đầu tiên quay mặt lại với tôi. "
       Ca sĩ J- Ax, xúc động tột độ, cho biết anh rất phấn khích bởi vì Sơ là người có tài năng nhất trong chương trình.
       Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, hôm Thứ năm, đả lên tiếng khen thưởng Sơ Cristina về việc chia sẻ tài năng của mình với những người khác, Ngài nhắc tới lời khuyên cuả thánh Phêrô trong thơ thứ nhất: 
"Mỗi bạn nên sử dụng bất cứ món quà gì mà bạn đã nhận được để phục vụ cho người khác (1 Peter 4: 10) ".


                                                  (nguồn : vietcatholic.net)

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

CẢNH THẦN TIÊN NƠI DÒNG SÔNG NGŨ SẮC


Nhiếp ảnh gia Olivier Grunewald mới đây ghi lại khoảnh khắc đẹp về Cano Cristales, một trong những con sông đẹp nhất thế giới ở công viên quốc gia Macarena, Colombia.

Khi mực nước hạ thấp vào cuối mùa mưa trong tháng 8, loài cây sống dưới nước
khiến dòng sông có màu hồng

Dòng nước chảy xuống một hốc đá tạo nên cảnh đẹp kỳ ảo

Cano Cristales tràn ngập sắc hồng, vàng, xanh, xám của các thảm thực vật

Loài cây Macarenia Clavigera màu hồng mọc từ những nền đất màu vàng

Macarenia Clavigera đổi màu khi mực nước hạ thấp. Màu hồng đặc trưng
giúp bảo vệ chúng khỏi bức xạ mặt trời

Người dân địa phương gọi Cano Cristales bằng nhiều tên như con sông đẹp nhất thế giới,
sông ngũ sắc, sông cầu vồng...

Vào cuối tháng 7 khi sông cạn nước, loài cây Macarenia Clavigera sinh sôi nhanh
vì có điều kiện sống thích hợp


Thân cây Macarenia Clavigera phát triển mạnh dưới nước

Cảnh tượng như thiên đường ở hạ giới

                                                                                                (Nguồn : 24h.com.vn)


Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

NHỊP CẦU THIÊNG LIÊNG


SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA CHAY A                                                            
 TGM  Giuse Ngô Quang Kiệt


          Từ khi cầu Mỹ thuận được đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp gỡ Thiên chúa. 
          Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh.
         Chúa Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Chúa bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống. Chị hợm mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có. Người phụ nữ có giếng nước, có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình. Chị còn có đền thờ vững chắc xây dựng trên núi Garidim, trách nào chị chẳng hợm mình.
        Nhưng Chúa Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là nguỵ tín, vì đền thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong.
       Trong phút chốc, chị trở nên thật nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả. Nay chị thấy mình trắng tay. Trước kia chị tưởng mình giàu có. Nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo nàn. Bóc đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối trào dâng.
       Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành luỹ che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là những tảng đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào tuôn.
        Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hoá bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn.
       Thì ra, của cải, dục vọng, tôn giáo vụ hình thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra Đấng Cứu Thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Chúa Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc đó, bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách : "Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư ?". Nhưng Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống. Chị nhìn ra người đối diện "Cao cả hơn tổ phụ Giacóp". Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị nhận ra Người là "Một tiên tri". Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Người.
       Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả bình, chạy về làng báo tin vui.
       Chị để quên chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.
       Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.
       Lời Chúa là ngọn đèn soi đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.
       Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã găp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường bay rất đẹp.
       Về đại bàng, Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác gà trống : " con gì mà khủng khiếp quá nhỉ ". "Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là gà". Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết.
        Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những nguỵ tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.
         Xin lời Chúa như lưỡi gươm tách bạch trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.
                                                                            (Nguồn : danchuausa.net)

Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2014

THƯ GIÃN : BÀI TÓAN CHIA BÒ

             Truyền thuyết Ấn Độ cổ đại có kể câu chuyện: Có một ông già, trước khi lâm chung để lại di chúc muốn chia 19 con bò cho ba người con theo quy định: con cả được chia 1⁄2 tổng số bò, con thứ hai được chia 1⁄4 tổng số bò, còn con thứ ba được chia 1⁄5 tổng số bò nhưng không được bán để chia tiền.


            Theo phong tục của Ấn Độ giáo thì bò được coi là vật linh thiêng nên không được giết thịt, chỉ có thể chia cho con đang sống. Sau khi người cha qua đời, ba người con đã tìm hết cách mà vẫn chưa chia được đàn bò, cuối cùng họ quyết định trình quan xét xử. Các quan lại địa phương vốn là túi rượu thịt, gặp việc khó xử bèn lấy lý do “quan thanh liêm khó quyết đoán việc trong nhà” để từ chối.

         Ở làng bên có ông già thông thái.

         Một hôm ông đi qua nhà ba anh em nọ, bèn nghe bàn cãi sôi nổi. Hỏi xong ông mới biết nội dung câu chuyện chia bò. Rồi thấy ông già trầm tư giây lát, sau đó ông nói: “Việc này làm được! Ta có một con bò cho các anh mượn. Như vậy tổng cộng có 20 con bò. Bò của các anh sẽ được chia như sau:

         Anh cả được chia 1⁄2 tức là 10 con,

         anh thứ hai được chia 1⁄4 tức là 5 con,

         còn anh thứ ba được chia 1⁄5 tức là 4 con.

         Ba anh em tổng cộng lại đúng 19 con bò, 1 con còn lại trả cho ta”.




         Thật tuyệt diệu! Một vấn đề nan giải đã làm nhiều người suy nghĩ nát óc lại được giải quyết một cách nhẹ nhàng, khéo léo như vậy. Cách chia này tự nhiên trở thành giai thoại và lưu truyền tới ngày nay.


(Nguồn : http://toithichdoc.blogspot.com)

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014

NHỮNG ĐIỀU CẦN TRÁNH KHI DẬY GIÁO LÝ




Năm học giáo lý sắp bắt đầu. Anh chị em giáo lý viên đang hăng hái chuẩn bị cho năm học mới một cách rộn ràng và hăng say. Chắc chắn các anh chị hiểu được mình cần phải làm gì cho lớp giáo lý sinh động và hiệu quả hơn. Ở đây, chúng ta cùng chia sẻ một số điều cần tránh trong lớp giáo lý (mà thực tế chúng ta thỉnh thoảng hay vướng phải). 

1. Đừng dạy thần học.

Cha Giuse Lê Quang Uy DCCT viết: “Thần học là một khoa học chuyên biệt, với nhiều trường phái và quan điểm khảo cứu về Thiên Chúa ( Théologie ), nó cung cấp rất nhiều kiến thức, lý luận, nhận định có hệ thống chặt chẽ về Thiên Chúa, tuy đôi khi vẫn còn có thể gây ra nhiều tranh cãi đưa tới nhiều canh tân đổi mới.
Trong khi đó, việc dạy Giáo Lý, dẫu có vận dụng đến một số điểm thần học căn bản, lại muốn đưa các em đến Lòng Tin, Lòng Yêu Mến và Lòng Cậy Trông chân thành đối với Thiên Chúa, để rồi thể hiện cụ thể ra trong đời sống của mình, vượt qua mọi thứ kiến thức và lý luận của lý trí. Do vậy, học Giáo Lý dứt khoát không phải là để nghe những bài thuyết trình hùng hồn hấp dẫn về Thiên Chúa”. (Nối Lửa Cho Đời 3)
Như vậy, giáo lý viên đừng nói cho các em tất cả những gì mình đọc và học trong sách thần học, mà hãy nói cho các em về Thiên Chúa bằng ngôn ngữ đơn giản, bình dân và phù hợp với các em. Ví dụ : Khi dạy về Đức Chúa Cha, giáo lý viên đừng mất giờ chứng minh mầu nhiệm Thiên Chúa Cha bằng kiến thức thần học, mà hãy nói làm sao cho các em cảm được tình yêu của Chúa Cha dành cho các em qua công cuộc tạo thành, cho các em cảm được rằng từng bông hoa, từng ngọn cỏ, từng làn gió là kết quả của tình yêu. 

2. Đừng đòi hỏi các em hoàn hảo.

Giáo lý viên thường muốn cho các em hoàn hảo và nghĩ là các em hoàn hảo. Do đó chúng ta không chấp nhận các em ồn ào, nói dối, quay bài hay đánh nhau. Nhưng chúng ta phải chú  ý rằng khi Đức Giêsu đi rao giảng, thì ít ai trong xã hội Do thái hoàn hảo, kể cả các Tông đồ. Giáo lý viên chúng ta cũng còn chưa hoàn hảo kia mà ! Do đó, hãy chú ý uốn nắn, dạy cho các em bỏ tính xấu, tập nhân đức… nhưng đừng quá khắt khe cầu toàn. Dù sao thì các em cũng bị ảnh hưởng nhiều từ trường phổ thông và xã hội trần thế, nhất là một xã hội nơi người ta từ chối Thiên Chúa và chấp nhận cái giả trá để tồn tại. Thái độ bao dung, thông cảm (nhưng nghiêm khắc) sẽ giúp hoán cải các em. 

3. Đừng chỉ trích các em trước mặt mọi người.

Trong cuốn Đắc Nhân Tâm, Dale Carnegie viết đại ý là nên tránh chỉ trích. Nếu có phê bình thì nên giữ thể diện cho người khác và biết khen cái tốt của họ trước. Có những lúc theo tính con người, giáo lý viên thấy bực bội khi các em không học bài, quậy phá và hỗn hào. Hơn nữa, có em chẳng chịu sửa lỗi dù đã được chỉ bảo nhiều lần. Khi đó, việc chỉ trích, la mắng các em trước lớp có thể xảy ra dễ dàng. Nhưng nếu chúng ta làm như thế, chúng ta đi ngược lại với đường lối rao giảng của Đức Giêsu. Người không la mắng trẻ em bao giờ. Người chỉ quở trách người lớn khi lỗi của họ nghiêm trọng, gây gương xấu lớn lao và không phù hợp với chương trình Cứu độ. 

4. Đừng tiếc lời khen.

Trong thuật xử thế, khen tặng là cách làm vui lòng người, miễn là khen thành thật. Trong sư phạm, khen là cách khích lệ và làm các em có thêm hứng thú để. Đừng tiếc lời khen nhưng cũng đừng khen không đúng chỗ. Có giáo lý viên thấy các em làm gì cũng nói « tốt », « hay quá » khiến lời khen không còn ý nghĩa. Nhưng ngược lại, nhiều giáo lý viên rất tiết kiệm lời khen. Các em thuộc bài, ngoan ngoãn hay có những hành động tốt, ý tưởng hay. Đáng khen lắm chứ. Nếu chúng ta coi việc tốt của các em là đương nhiên, thì cũng có lý một phần. Nhưng mặt khác, tuổi các em rất cần những khích lệ, nâng đỡ và thông cảm. Người lớn còn cần lời khen kia mà. Chúa Giêsu vẫn khen các môn đệ và những người nghe Chúa, vì Người hiểu tâm lý con người.

5. Đừng cau có, la mắng, đe doạ liên tục.

Cha Lê văn Quảng, một nhà tâm lý viết : « Chúng ta cần phải cắt nghĩa Kinh Thánh hay trình bày giáo lý cho con trẻ một cách thích hợp. Sự giải thích phải phù hợp với tuổi tác, kiến thức, văn hóa, và hợp với văn minh thời đại để giúp con trẻ thu thập vốn liếng cần thiết cho đời sống tâm linh mà không làm khủng hoảng chúng trong vấn đề tâm lý. Sự giáo huấn của tôn giáo có thể được dùng để giúp cho con trẻ biết khám phá ra rằng một số loại hành động chắc chắn nào đó đã được tìm thấy là sai trái vì chúng đã làm hư hại sự liên hệ tốt đẹp và hạnh phúc giữa con người ». 

6. Đừng kể chuyện tầm phào hay đùa giỡn thái quá.

Ở giáo xứ nọ khu ông Tạ, Sàigòn, một giáo lý viên hỏi các em : « Có em nào chà đồ nhôm chưa ? » Các em ngơ ngác nhìn nhau. Anh cười hì hì và nói : « Chà đồ nhôm là chôm đồ nhà ». Việc đùa giỡn kiểu đó có thể làm các em cười, nhưng cũng chưa lấy gì làm duyên dáng hay giúp gì cho bầu khí giáo lý. Những mẩu chuyện vui, hài hước giúp các em thoải mái học bài và nhớ bài học, nhưng những chuyện tầm phào làm các em chán hoặc có tác dụng ngược. Hãy tránh những lối chọc cười dung tục, chế nhạo hay làm các em thấy bị thương tổn. Ví dụ có giáo lý viên cứ hay đem em bé da đen sậm ra chọc cười !  
7. Đừng làm gương xấu mà hãy nêu gương sống đạo.

Thánh Phaolô nói : « Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kytô ». Chúng ta không dám nói như thế, nhưng phải sống điều chúng ta dạy. Một anh trưởng phòng nọ hay chia chác tiền ăn bớt công quĩ, khi dạy giáo lý đến bài Công Bằng thì anh cứng họng không nói được, phải nhờ một chị khác giảng giùm. Sau này anh sửa đổi lối làm việc, đi tu làm linh mục, và cha thường kể chuyện ấy để cho thấy rằng phải sống điều mình dạy. Một cha DCCT giảng về lòng bác ái, sau lễ có người đến nói : « Cha nói hay quá, vậy cha có thể thực hành không ? Cho con xin ba trăm ngàn ». Ngài nghèo nhưng sẵn đang có  số tiền có người mới đưa, ngài cho anh ta ngay. Sống lời giảng là vậy đó. Khi một tiến chức được phong chức linh mục, Đức Giám Mục trao Kinh Thánh cho thầy và nói : « Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và sống điều con dạy ». Dạy giáo lý hoàn toàn khác với các môn học khác ở chỗ đó. 

8. Đừng nóng nảy đánh phạt các em.

Chúng ta đã nghe chuyện một cậu bé giúp lễ bị cha xứ tát và đã bỏ chạy khỏi nhà thờ và xa Giáo Hội mãi mãi, đó là Tito, nhà độc tài Nam tư. Đánh phạt nóng nảy có nhiều tai hại :
-         Làm các em chán ghét giáo lý.
-         Các em không học bài được và không nhớ bài học.
-         Tạo tâm lý bất an cho các em và hình thành nhân cách sai lạc.
-         Các em có cái nhìn sai về Giáo Hội và giáo lý.
Có anh chị lý luận : « Đánh các em mới nhớ ! Phụ huynh cũng đồng ý cho tôi đánh các em mà ». Lý luận này nguy hiểm ở chỗ là dùng cái không kiểm chứng được để biện minh cho hành động sai lạc rõ ràng. Chúa Giêsu bảo : « Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, đừng xua đuổi chúng ». May mà các Tông đồ chưa đánh em nào ! 

9. Đừng chỉ trích Giáo Hội là Mẹ chúng ta.

Giáo Hội là Nhiệm Thể và là Hiền Thê của Đức Kytô, Đấng chúng ta yêu mến và rao giảng. Giáo Hội có những con người và những điều chưa xứng hợp với phẩm giá làm Nhiệm Thể thánh thiện, nhưng bản chất Giáo Hội là thánh. Do đó việc phê bình chỉ trích Giáo Hội trong lớp giáo lý được hiểu là việc chống lại lời rao giảng. Chúng ta không buộc phải giấu những điều chưa đúng của con cái Chúa trong một số trường hợp, nhưng trong lớp giáo phải tránh phê bình chỉ trích, làm gương xấu cho các em. 
           
Lạy Mẹ yêu thương, chúng con xin dâng năm học giáo lý cho Mẹ và chúng con xin dâng các em nhỏ của chúng con cho Mẹ. Các em là học trò của Chúa Giêsu, xin Mẹ là Thầy dạy chúng con, cho chúng con biết cách đối xử sao cho các em cảm thấy mình ngày càng lớn lên trong Giêsu, Con Mẹ.
Gioan Lê Quang Vinh
(Nguồn : conggiaovietnam.net)