Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

CUỘC CHIẾN NGÀN NĂM THUỐC NAM - THUỐC BẮC



Hoàng Tuấn Phổ



Một hiệu thuốc của người Việt

            Mỗi dân tộc, để sinh tồn, phải có nền y học dân tộc riêng của mình. Truyền thuyết Trung Hoa nói vua Thần Nông mỗi ngày nếm 100 thứ cây cỏ, trong đó có 70 thứ độc, nhiều lần ông bị ngộ độc suýt chết, nhưng cũng nhờ có loại cây cỏ giải độc nên thoát chết. 

           Bởi vậy, vua Thần Nông đã tìm ra thuốc chữa bệnh. Việt Nam cũng có vua Thần Nông, vua của nghề nông, không phải một mà nhiều ông, rất nhiều ông. Thần Nông Việt Nam không liều mạng như Thần Nông Trung Quốc. Ông thông minh hơn, biết dựa vào thiên nhiên, nhờ vào động vật sống trong thiên nhiên để tìm ra cây lành, cỏ độc. Con chó mẹ sau khi đẻ con ra vườn tìm ăn một thứ lá cây, thành tên chó đẻ, một vị thuốc quý. Con khỉ trên rừng bị tên bắn, hái lá đắp vào vết thương, người ta trông thấy, dựa vào đặc điểm đặt tên bồ cu vẽ. Trâu bò gặm cỏ trên đồng, loài dê ăn lá trên núi, cỏ lá gì chúng ăn là lành, thứ gì chúng thà nhịn đói chứ không đụng mõm là độc, v.v… Từ những kiến thức cơ bản ấy, người xưa không ngừng tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết, dân gian truyền miệng, có chữ thì ghi chép.


            Lục địa Trung Quốc rộng lớn, núi cao, rừng rậm, cây cỏ nhiều. Trên cơ sở đó, dược liệu họ phong phú và phát triển. Nhưng khí hậu Trung Quốc tùy từng miền mà có khô hanh, lạnh giá, băng tuyết, cây cỏ không tươi tốt bằng phương Nam bốn mùa xanh màu xanh sự sống. Bản chất người Trung Quốc từ ngàn xưa, thích chiếm đoạt đất đai và ham làm giàu bằng nhiều thủ đoạn. Trẻ em Việt Nam cũng biết điều này, thường hay hát: “Ngộ bên Tàu là ngộ mới sang, sang Nam Việt bán buôn làm giàu…”. Một trong những con đường làm giàu của họ là thuốc Bắc. Thời Trần, chợ Cửa Đông lớn nhất kinh thành, riêng hẳn một phố Thuốc Bắc. Nhiều hiệu bán thuốc Bắc có cả thầy thuốc Bắc. Từ kinh thành, thuốc Bắc tỏa đi nhiều ngả đường đến các thị trấn, thắt chặt dây thòng lọng vào cổ thuốc Nam.




             Nhưng thuốc Nam không dễ chết. Ngược lại, có sức sống mãnh liệt riêng của nó. Đối diện với phố Thuốc Bắc chợ Cửa Đông là những hàng mẹt, thúng, mủng, chiếu bày la liệt những cây, lá, củ, quả… có tác dụng chữa bệnh, nhà nông thu hái từ rừng núi Hải Đông lên, Sơn Tây xuống. 


            Nhiều dược vị Trung Quốc không có hoặc không tốt bằng, giá cả lại rất rẻ. Tại đây thương trường cũng là chiến trường. Người Trung Quốc mua dược liệu Việt Nam là tiêu thụ hàng hóa cho Việt Nam. Nhưng họ đem về nước sơ chế rồi lại bán sang nước ta giá đắt gấp nhiều lần với cái tên thuốc Bắc. Chỉ có thể dẫn ra một ít ví dụ: binh lang (hạt cau già),trần bì (vỏ quýt rừng), sinh khương (gừng sống), can khương (gừng phơi râm mát), khiếm thực (củ súng), liên nhục (hạt sen), long nhãn (cùi nhãn) v.v… Đại hồi mọc ở một số tỉnh biên giới Trung Việt, nhưng đại hồi chỉ mọc nhiều ở Lạng Sơn và chất lượng tốt nhất. Củ mài Việt Nam - Trung Quốc đều có, riêng củ mài Bắc Ninh tốt nổi tiếng (Hoài sơn). Trung Quốc trồng nhiều ở Quảng Tây, Quảng Đông giáp giới Việt Nam, cho quế nhục, quế bì, quế chi làm thuốc nhưng không tốt bằng quế Việt Nam, đặc biệt là quế Thanh Hoa (Trịnh Vạn) rồi đến Nghệ An (Quỳ Châu). Cho đến lộc nhung, gạc nai,… cũng vậy.


               Năm 43, tướng xâm lược Mã Viện tiến vào Cửu Chân (Thanh Hóa) vơ vét trống đồng tiêu diệt linh khí phương Nam, linh hồn Lạc Việt. Mã Viện tiêu diệt nền văn hóa Việt Nam, không quên chất hàng xe đầy cây bo bo (hạt làm thuốc) Trung Quốc gọi là ý dĩ chở về nước. Những năm tháng Trung Quốc đô hộ Việt Nam, bắt dân ta phải tiến cống sừng tê, ngà voi, ngọc trai,… đều có tác dụng làm thuốc trị bệnh vô cùng quý hiếm…


              Đời vua Trần Hiến tông đêm trăng trung thu chơi thuyền Hồ Tây, Thái tử Vượng ngã xuống nước, chỉ còn thoi thóp thở. Vua triệu thầy thuốc giỏi Trâu Canh đến chữa. Trâu Canh là con Trâu Tôn, dòng dõi đại y sư Trâu Diễn. Trâu Tôn vào quân đội phục vụ quân xâm lược Nguyên Mông sang nước ta cướp phá. Quân Nguyên Mông đại bại, Trâu Tôn bị bắt, vua Trần tha tội vì y biết nghề thuốc. Trâu Canh nối nghiệp cha làm thuốc, rất được tín nhiệm. Đáng lẽ chỉ cần châm vào huyệt nhân trung và mệnh môn hỏa, thái tử Vượng tỉnh lại ngay và khỏe mạnh bình thường. Nhưng Trâu Canh châm vào hiểm huyệt khiến thái tử Vượng lớn lên bị liệt dương, không thể sinh con nối dõi. Vua Hiến tông chỉ có Vượng là con trai, tất anh em trong họ tranh giành ngôi báu, tạo cơ hội để nhà Nguyên phát binh mã kéo sang đánh lấy Đại Việt dễ như thò tay vào túi lấy đồ vật.

                 Chị ruột thái tử Vượng, công chúa Thiên Ninh rất thông minh và quyết đoán, bằng mọi cách muốn em trai chữa khỏi bệnh liệt dương. Vua Hiến tông sai Trâu Canh tìm phương thuốc cứu chữa. Trâu Canh ra chợ Cửa Đông mua mấy hàng thuốc Nam các thứ thông dụng: Diêm sinh (lưu hoàng), cây chân chim (ngũ gia bì), củ súng (khiếm thực), củ mài (hoài sơn)… cho vua Dụ tông (thái tử Vượng) trong uống, ngoài đắp. Dụ tông quả nhiên khỏi bệnh. Nhưng Trâu Canh chưa cho gặp các cung nữ vội, bắt phải thông dâm với chị ruột (công chúa Thiên Ninh) ba lần… Sau đó, những cung nữ được chọn dâng lên vua do Trâu Canh đã bí mật gian dâm trước. 

Thời gian sau, bệnh Dụ tông tái phát như cũ, nhưng một số cung nữ vẫn có chửa! Thượng hoàng Hiến tông sai tra hỏi, họ đều thú nhận. Hiến tông khép Trâu Canh án tử hình. Dụ tông xin tha tội chết, chỉ cách tuột chức tước, vì dù sao y cũng có công chữa bệnh cho vua. Đám cung nữ xấu số bị đuổi ra khỏi cung. Họ không thể mang giống nòi Trâu Canh. Họ ra chợ Cửa Đông tìm đến các mế nàng bán thuốc Nam, xin được thương tình “cho” ấm thuốc lá…


                Vua Dụ tông chết sớm, ngôi báu truyền sang Nhật Lễ. Vốn Lễ là con trai Kép hát Trung Quốc Dương Khuông do Cung Túc vương Nguyên Dục thích vợ anh ta đẹp, hát hay lấy về làm lẽ đã có mang 3 tháng, sau đẻ ra Nhật Lễ. Nhật Lễ được làm vua, ra lệnh tàn sát tôn thất, giết cả Thái hậu, đưa người họ Dương và phe cánh vào triều nắm giữ các chức vụ trọng yếu. Đất nước đứng bên bờ vực thẳm…


            Thiên Ninh công chúa (chị ruột Dụ tông) họp gia nô làm lính, hẹn Cung Định vương Trần Phủ hội quân tại bến sông Đại Lại Thanh Hóa rồi kéo ra Thăng Long bắt giết Dương Nhật Lễ, đưa Trần Phủ lên ngôi làm Nghệ tông. Đất nước lại đứng vững sau cơn nguy biến nhất thời.


            Thời Trần, Nho học nước ta bắt đầu phát triển. Những tài năng lỗi lạc, danh sĩ xuất chúng: Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quát, Trương Hán Siêu… đều xuất thân cửa Khổng sân Trình. Nhưng quan trường đất chật, nho sĩ người đông, không “tiến vi quan” thì “đạt vi sư”. Ai cũng làm nho sư (thầy đồ) kiếm đâu ra học trò? Đành “sư” nào là “sư”: Địa lý sư, y sư, bốc sư, pháp sư,… 


               Nhiều người chọn nghề thầy thuốc chữa bệnh cứu người, giúp đời. Họ nghĩ học thuốc Bắc dễ kiếm sống vì chỉ có thuốc Bắc mới có sẵn thầy để học, sách để đọc và thuốc Bắc để chữa bệnh. Họ xuất thân từ nông thôn, hành nghề ở nông thôn. Nhưng thuốc Bắc giá đắt, đa số nông dân nhà nghèo khó, vẫn dùng thuốc Nam là chính vì rẻ tiền, lắm khi không mất tiền. Ví dụ: Chị Cò có thằng Cu bị đi phân lỏng đến nhà thầy thuốc Nam hỏi “xin” tí thuốc. Thầy (chỉ là bà lang vườn) bảo: “Nhà chị về nhà hái mấy ngọn ngấn hương, mấy búp chè, mấy đọt ổi, thêm vài ba hạt muối, nhai nát trún cho cháu vài ba lần thì khỏi!” Chị Cò nghe lời thầy về làm theo, quả nhiên thằng Cu khỏi.


             Ở nông thôn, thực tế, từ vườn ngõ nhà mình đến đầu làng cuối xóm, ngoài đồng ruộng, bái hoang, chỗ nào cũng mọc đầy cây cỏ có tác dụng chữa bệnh. Người dân nào cũng ít nhất biết một vài bài thuốc Nam đơn giản chữa bệnh. Thành ngữ “Thầy nhà lá vườn” phản ánh khá chính xác tình hình thuốc thang và công việc chữa bệnh trước kia ở nông thôn nước ta.


             Thầy thuốc Bắc thường phải có dao cầu, bồ thuốc, nhưng ít khách, thị trấn xa, hay bị “què vị” (thiếu vị) không dễ “bổ vị” (mua bổ sung) đành phải tính bài “thay vị” Bắc bằng vị Nam. Thì nhà thầy có cả kho “bán không ai mua, cho không ai lấy”. Nhà thầy cũng như nhiều nhà khác, trên một mảnh vườn hẹp, có biết bao cây thuốc, vị thuốc quý: Cây núc nác đầu ngõ, vỏ tác dụng như vị hoàng bá, cây vối sau nhà vỏ là hậu phác, cỏ gấu mạnh như gấu, củ của nó là hương phụ, cây cứt lợn mọc đầy bờ vườn là vị hy thiêm, cây cau cao vút, hạt già là vị binh lang, dây trầu không leo cây cau có thể thay vị phòng phong, v.v…


              Nam dược thần hiệu là bộ sách lớn đặc biệt giá trị của Đại y sư kiêm đại thiền sư Tuệ Tĩnh. Ông chủ trương “Nam dược trị Nam nhân”, là người đầu tiên đặt nền móng cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, xây dựng nền y học dân tộc nước nhà, trước hết vì:


Thiên thư đã định rõ Nam bang

Thổ sản cũng khác miền Bắc quốc.

              Tuệ Tĩnh trên tinh thần khoa học, không bài ngoại hay bài xích Trung y Bắc dược. Ngoài bộ Nam dược thần hiệu, ông biên soạn rất công phu bộ Hồng Nghĩa giác tư y thư”, trong đó ông sở đắc khá nhiều cái hay của y lý Trung Hoa. Trong bài phú “Thuốc Nam” bằng quốc âm, Tuệ Tĩnh viết:


Tôi Tiên sư kính đạo Tiên sư

Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt.

              Do thời tiết, khí hậu, đất nước phương Nam khác miền Bắc quốc, hoạt chất, tinh chất cây cỏ Nam Bắc tất không hoàn toàn giống nhau. Khí chất, bản tính người Việt Nam với người Trung Quốc cũng vậy. Đó là một đề tài hết sức thú vị, nhưng ở đây, trong một bài viết ngắn, không thể đi sâu.



               Hàng thuốc Bắc tràn ngập thị trường dược liệu, thầy thuốc Bắc cũng chiếm lĩnh “thị trường” chữa bệnh dẫn đến thị hiếu quen dùng, ưa dùng thuốc Bắc. Dược liệu Nam bị coi rẻ, thầy thuốc Nam bị coi thường, gọi bằng các tên lang vườnlang khoailang bămlang gà!


               Nhưng thuốc Nam không thể mất, thầy lang không thể chết. Vì người Nam vẫn sinh tồn và phát triển, dù trải qua bao cuộc chiến tranh hủy diet.


               Một lý do rất đơn giản, thiết thực là thuốc Nam tiện và lợi. Những thầy thuốc trong Thái y viện thời Lê được đọc sách Bản thảo chữ Hán từ Thần nông bản thảo cổ xưa đếnBản thảo cương mụcBản thảo tòng tânBản thảo thập diBản thảo vấn đápNam phương thảo mộc trạng, v.v… Chắc chắn họ phát hiện quá nửa số dược vị trong Bản thảo cương mục nổi tiếng của Lý Thời Trân (đời Minh), ở Việt Nam cũng có và tác dụng chữa bệnh giống nhau.


               Tiêu biểu cho giới thầy thuốc thời Lê là danh y Trần Ngô Thiêm, sống nửa đầu XVIII, người làng Tây Mỗ, Từ Liêm (Hà Nội), một ngự y rất được các vua nhà Lê tín nhiệm. Những phương thuốc kinh nghiệm của ông truyền lại, ngoài phương dược cổ rút ra từ y thư Trung Hoa được các danh sư Trương Trọng Cảnh, Trần Tu Viên,… bàn luận nhiều và một số phương thang do ông tự cải tiến, có không ít bài thuốc theo kinh nghiệm chữa bệnh của nhân dân, ông sưu tầm được. Trong đó, nhiều phương thuốc mang tính Bắc - Nam kết hợp. Đặc biệt, Trần Ngô Thiêm sử dụng cả thuốc dân gian kinh nghiệm của người Việt. Ví dụ: Bệnh trẻ em bị kinh phong méo mồm, lấy máu mào gà bôi vào thóp và góc hàm em bé sẽ khỏi. Nếu trẻ em bị kinh phong phát sốt: Chích máu mào gà hòa với ít bột hùng hoàng cho uống, v.v…


               Đời Tây Sơn, ngọn cờ “Nam dược thần hiệu” do Tuệ Tĩnh dựng lên (thế kỷ XIV hay XVII?) được vua Quang Trung phất cao bằng việc thành lập Viện nghiên cứu chữa bệnh bằng thuốc Nam (Nam dược cục) do danh y Nguyễn Hoành làm Viện trưởng (Ngự y chính, chánh cục) là đòn chí mạng vào độc quyền thuốc Bắc của Trung Quốc. Theo lương y Nguyễn Minh Cầu (hậu duệ Nguyễn Hoành), Nguyễn Hoành có soạn sách Nam dược bản thảoY học nhập môn ca… Rất tiếc, sau khi vua Quang Trung mất (1792) Nam dược cục không được vua Quang Toản quan tâm, Nguyễn Hoành xin giải chức, về quê Thiên Linh, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa, làm một lang vườn!


                 Thực tế, không phải mới từ Lê - Tây Sơn mà đời Trần thuốc Nam đã được chú trọng với việc Trần Hưng Đạo gây trồng vườn cây thuốc Nam trên núi Sơn Dược (Hải Dương), ẩn sĩ Trần Tu (Thời Trần - Hồ) cũng có một vườn “thuốc tiên” trên đỉnh Am Tiên, núi Nưa (Thanh Hóa)…


              Triều Nguyễn biên soạn bộ Đại Nam nhất thống chí, chú trọng mục sản vật, trong đó sưu tầm, ghi chép những vị thuốc quý ở từng địa phương như sâm báo, sâm Bố Chính, quế Thường Xuân, ý dĩ Thanh Hóa, nam tinh Vĩnh Lộc, sơn dược Kinh Bắc, v.v… Rất độc đáo và đặc sắc một số cây thuốc Nam được khắc hình lên đỉnh vạc lớn đặt ở sân nhà Thái miếu kinh thành Huế: Quế Thanh (Nghị đỉnh), Hương nhu (Thuần đỉnh), Sa nhân (Thuần đỉnh), Hột sen (Nhân đỉnh), Quả nhãn (Tuyên đỉnh), Tía tô (Dụ đỉnh), Kiệu(Chương đỉnh), Tỏi (Huyền đỉnh), Gừng (Tuyên đỉnh), Hành (Cao đỉnh), Hẹ (Nhân đỉnh), Đậu xanh (Chương đỉnh), Đậu trắng (Dụ đỉnh), Đậu ván (Nhị đỉnh)… Khắc ghi vào đỉnh vạc những cây thuốc, vị thuốc quý của Nam dược là cách khẳng định giá trị muôn đời của thuốc Nam trường tồn bất diệt cùng với người Việt Nam, giang sơn gấm vóc, đất nước yêu quý Việt Nam.


                Tỉnh Thanh Hóa, thời kỳ phong kiến chống bành trướng xâm lược phương Bắc, ra đời loại hình trò diễn dân gian. Rất nhiều trò Ngô, nội dung hài hước, chế diễu, đả kích quân Tàu thực dân “sang Nam Việt bán buôn làm giàu” bằng các thủ đoạn xảo quyệt, vô nhân tính. Ví dụ: Trò Khách xưa ở làng Thiết Đanh, Yên Định và Bằng Trình, Thiệu Hóa. Một chú khách Tàu bán thuốc Bắc (đi cùng thầy địa lý Tàu) quảy đôi bồ rao thuốc: “Cái nị (ông, bà)! Cái nị! Thôốc lớ! Thôốc lớ! Ngộ tựa (từ) Quảng Tông (Quảng Đông), ngộ sang Pắc kè (Bắc kỳ), cái nị muốn thôốc chi, ngộ cũng pán!” Một người Nam nói đế: “Thôốc thôốc, thôốc chi mà thôốc? Bải (phải) rồi! Củ chuối, củ nâu, nấu chín, nhuộm đen thành thôộc tịa (thục địa)!” Người khác đế thêm: “Thôốc thôốc! Thôốc tốt nhờ thang, cả làng nhờ thuốc thầy Tàu: Đau bụng thì uống nước đồng, đau mắt lấy mủ xương rồng mà tra, nhức đầu lấy đá mà va…!” Khán giả cùng cười vang. Thầy Tàu cũng nhe bộ răng trắng nhởn ám khói vàng khè cười hềnh hệch !... (1)


             Đó là bản chất, bản tính tàn ác, xảo quyệt, trơ tráo của người Trung Quốc. Cho nên ông cha ta từ xưa đã chỉ rõ chân tướng : “Thuốc Nam đánh giặc thuốc Bắc lấy tiền(2). Nay, thuốc Bắc vẫn xuất sang ta, dùng nhiều hóa chất độc hại khi gieo trồng, bào chế cùng hạng thầy Tàu rởm, khoe khoang chữa bách bệnh nan y đều chung mục đích như tổ tiên họ “Sang Nam Việt bán buôn làm giàu” không từ thủ đoạn lừa đảo, cướp của, giết người! 


             Xem ra cuộc chiến ngàn năm thuốc Nam - thuốc Bắc chỉ là một trong nhiều trận địa cam go, chưa có hồi kết...


HTP - 20/6/2014

............
(1) - Câu này có vẻ mâu thuẫn. Nhưng người Tàu để răng trắng (không nhuộm răng như người Việt) vì hút thuốc phiện nên răng ngả màu vàng khè.

(2) - “Đánh giặc”, nghĩa bóng ở đây là “chữa bệnh”. Ý nói, các vị thuốc Nam được đặt cái tên chữ thuốc Bắc, giả làm thuốc Bắc. Bệnh khỏi là do thuốc Nam của ta, nhưng tiền thu về lại bỏ vào túi thương nhân Tàu, thầy thuốc Tàu. Câu “Thuốc Nam đánh giặc, thuốc Bắc lấy tiền”“Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân giải thích: “ý nói: thuốc nam công hiệu, còn thuốc bắc thì đắt tiền”. Các giải thích này tối nghĩa, do tác giả không hiểu được nghĩa đen - bản chất sâu xa của vấn đề (chú giải của Hoàng Tuấn Công)