Chúa bị đóng đinh, tranh của Vouet, 1622
Ông sống tận cuối làng,
cô đơn và khó tính.Không giao du qua lại với ai. Ngày lại ngày,
có việc thì cặm cụi đục đẽo, không việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ,
trồng dăm bụi sắn, vài luống rau và ít bụi hoa. Người trong làng thỉnh thoảng
ghé đến nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi. Nguồn thu
nhập chính của ông là khắc tượng gỗ. Danh tiếng ông khá lẫy lừng , nhiều ngôi
chùa ở những nơi xa tìm ông để đặt hàng. Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy
nghi, to lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả.
Một ngày kia có vị Linh Mục đến đặt hàng làm ông ngỡ
ngàng. Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông Cha” giao
tiếp với ông, Thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua!
Ông Cha này rất điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác
gần gũi, thân thiện. Hàng đặt là một tượng Thánh Giá cao tới hai mét rưỡi và
chiều ngang một mét chín, nằm trên Thánh Giá này là tượng Chúa Giê-Su cao một
mét bảy.
- Nhưng thưa ông, Chúa Giê-Su là ai, tôi không biết rõ,
làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi?
Vị Linh Mục thoáng ngẩn người, ông mau chóng lục chiếc
cặp đang mang theo người, lấy ra một bức ảnh chịu nạn đưa cho người thợ, ông
này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà nghề, giọng đầy phân vân:
-Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng… Chúa! Từ
trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần. Đối với Chúa, tôi cảm thấy
xa lạ lắm. Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ bức ảnh
này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần. Ông biết đấy, tôi
đặt cao lương tâm nghề nghiệp…
Vị Linh Mục nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện cảm, ông
trao cho người thợ một cuốn sách:
- Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi, hy vọng ông
sẽ biết đầy đủ về Ngài.
* * *
Suốt cả tháng trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ cuốn Thánh
Kinh và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn. Không giống vẻ oai nghiêm của các tượng
Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an nhiên tự tại của tượng Phật với những
đường nét bệ vệ, tròn trĩnh. Tượng Chúa là những lồi lõm của một người gầy gầy,
với những thương tích khắp người, một người trần truồng để lộ ra những xương
sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương mặt hốc hác, đau đớn của người chịu khổ
hình. Một gương mặt đang trong tư thế ngước lên mà ánh mắt vừa chịu đựng lại
vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền lành, không thấy có chút nào của sự oán
trách, thù hận!
Ông cứ vừa nghiền ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc, ngày làm đêm
nghiên cứu. Ngay cả trong giấc mơ ông cũng thấy gương mặt Người Chịu Nạn bê bết
mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật trong cơn đau đớn, đôi môi khô nứt tím
tái hẳn đi. hai cánh mũi phập phồng trong cơn khó thở!
Ngày qua ngày, ông làm việc miệt mài nhưng rất chậm. Đôi
chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của Người Chịu Nạn, bị đóng dính vào Thập Giá
tương đối dễ khắc. Lồng ngực bức tượng nhô cao hiển lộ toàn bộ xương sườn như
đang cố hớp lấy không khí
khiến cho phần bụng thót lại làm ông thấy khó khắc hơn!
Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy guộc co quắp khiến những sợi gân căng
trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được sự đau đớn của Người Chịu Nạn! Hình như
không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn khổ như vị này! Hầu hết các vị đều
được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của các vị ấy cũng được truyền bá dễ dàng
chứ không bị bách hại như Đạo này!
Mỗi nhát đục ông đều đắn đo cẩn thận. Độ khó của bức
tượng kích thích ông mãnh liệt. Ông say mê làm việc như chưa bao giờ ông say mê
đến thế! Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở Kinh Thánh ra nghiền ngẫm về Con Người
Trên Thánh Giá. Cứ như trong sách ghi chép lại thì Con Người này có lẽ là Chúa
thật rồi! Ông ta làm phép lạ mà chẳng tốn một tí hơi sức nào cả! Chỉ một Lời,
thế là thành sự! Như thể ông ta là chủ tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy!
Hình như các vị Giáo chủ khác không làm phép lạ nào thì
phải? Các Ngài chỉ dạy dỗ thôi, mà ông này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự!
cái điệp khúc “ Phần Ta, Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi. Mà những Lời dạy
bảo của Người mới cao đẹp, mới thánh thiện làm sao!
Mỗi ngày qua, tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông
thợ lại càng xốn xang, khắc khoải. Có một điều gì đó làm ông băn khoăn. Ông
thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một người trong làng bị đau ốm, có khi
ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một người chết chẳng liên hệ gì với ông!
Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ, nay cũng cạn dần theo những lần ông âm
thầm đến nhà này, nhà nọ. Dân làng cũng thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì
bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc miệng cho rằng ông đốc chết (*), nhưng
nhìn chung họ dần có cảm tình với ông.
Giai đoạn khó khăn nhất cuối cùng cũng đến: Đó là gương
mặt Người Chịu Nạn. Ông đã bỏ nguyên hai ngày để đọc kỹ lại cuộc khổ nạn của
Chúa Giê-Su trong cả bốn quyển Tin Mừng. So sánh, đối chiếu cả bốn quyển để tìm
ra những điểm chung, điểm riêng, những nét đặc trưng khả dĩ giúp ông hình dung
ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà Chúa Giê-Su phải chịu. Ông mường tượng ra
những cơn đau khiến gương mặt co giật. Răng nghiến lại? ừ, có thể nào răng
nghiến lại khi cơn đau cùng cực không? Miệng có bị méo đi không? Còn mắt? Mắt
nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì quá sức chịu đựng? Mồ hôi và máu
thì dĩ nhiên rồi! Một gương mặt đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Tâm hồn dĩ
nhiên đau đớn lắm khi Người thốt lên: “ Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” mà tâm hồn
này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “ Con xin phó thác hồn con
trong tay Cha”. Một gương mặt tội nhân mà sáng chói sự thánh thiện khi Người
nguyện rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Một
gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái mà ông phải cô đọng lại!
Từng nhát đục ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần
trên thân gỗ. Gương mặt Chúa Giê-Su đau đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên
trời trong tâm tình phó thác vâng phục. Phải rồi, Người đã vâng phục cho đến
chết và chết trên Thập Giá đang khi Người uy quyền phép tắc đến thế! Ai làm gì
được Người nếu không phải chính Người tự nguyện chết thay cho nhân loại? Gương
mặt Chúa Giê-Su thánh thiện và khả ái làm ông hài lòng mặc dù mấy hôm nay một
cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông.
Khi ông dừng nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày
cũng vừa lịm tắt. Ông vui sướng cố dựng Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào
tường rồi mệt mỏi lê bước vào giường. Đặt mình nằm xuống, ông thiếp đi rất
nhanh, không hề mộng mị.
* * *
Tiếng gà gáy sáng làm ông choàng tỉnh giấc, toàn thân
khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm ông có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Bên
ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy hoàng làm
ông ngạc nhiên. Ông chợt nhớ ra chiều qua mình đã ngủ như chết, không tắm rửa,
không ăn uống và không cả đóng cửa!
Ông bước xuống giường đi
ra cửa và bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói loà toàn ánh sáng, một thứ
ánh sáng mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng cửa lớn nhà
ông. Toàn thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này. Một niềm hạnh phúc
ngọt ngào dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ
tênh, ánh sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi…
* * *
Phải đến hai ngày sau
dân làng mới phát giác ra ông đã chết dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa hoàn
thành, trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, mặt ngước lên và tay ôm chặt chân tượng
Thánh Giá.
Giu-Se Nguyễn văn Sướng