Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT


            Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.
         Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi: “Adam, Adam ngươi đang ở đâu?”. Am thanh của tiếng gọi không mang  âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có điều pha trộn chút âm điệu xót xa. “Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây trong vườn mà ta đã cấm?”.
         Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem “đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì “họ không biết việc họ làm”; Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: “ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
        Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa Giê-su trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.
          Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn “Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ” như sau:
           Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
          Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.
         Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
        Có lẽ đây là vấn đề mà những người kytô hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: “năm nay cao hơn năm trước”.
        Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông Lót  trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh  đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.
         Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
Lm.Jos Tạ duy Tuyền





THÁNH GIÁO HÒANG NHÂN HẬU - TIỂU SỬ VÀ CÔNG ĐỨC


        Trước khi làm Giáo Hòang 
Gia đình 
Giáo hoàng Gioan XXIII tên thật là Angelo Giuseppe Roncalli sinh ngày 25 tháng 11 năm 1881 trong một gia đình nông dân ở Sotto il Monte thuộc miền bắc nước Ý, là con thứ ba trong gia đình có tất cả 11 người con.
Dự tu
Angelo có ước nguyện đi tu từ rất sớm. Ngày rước lễ lần đầu, ngài đã tỏ với mẹ ước muốn làm linh mục. Ngài  chịu chức linh mục ngày 10 tháng 8 năm 1904.
Linh mục
Năm sau Ngài đỗ bằng tiến sĩ thần học và làm thư ký cho Giám mục địa phận Bergamo đến năm 1914 (trong gần 10 năm) .
Ngài là một người rất ham hoạt động, ngoài công việc cho Giám mục, ngài còn làm giáo sư đại chủng viện và điều khiển phong trào Công giáo tiến hành.
Tháng 4 năm 1915, nước Ý tuyên chiến với đế quốc Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, linh mục Roncalli được chọn làm tuyên úy quân đội và  hết sức tận tâm lo phần hồn cho các binh sĩ.
Vào năm 1920, Giáo hoàng Biển Đức XV gọi ngài  về làm việc ở Thánh bộ Truyền giáo. Vậy là từ năm 1920 – 1925, ngài  là thành viên Thánh bộ Truyền giáo của Giáo triều Rôma, chủ tịch hội truyền bá đức tin ở Rôma, Ý. 
Giám mục
Năm 1925, ngài  được tấn phong làm Giám mục hiệu tòa Roncalli  .
Đại diện Tòa thánh ở Bulgaria , Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp
Năm 1925, Giáo hoàng Piô XI trao cho ông một trách nhiệm mới: làm đại diện Tòa Thánh ở Bulgaria (1%Công giáo). Đó là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, vì đã hơn 1000 năm này giữa Rôma và Bulgaria không có liên lạc.
Trong thời gian làm đại diện Tòa thánh, ngài không lùi bước trước một sự khó khăn nào, luôn thăm viếng tận những nơi hẻo lánh và khó khăn nhất. Ngài  đem hết tâm trí để đặt nền móng cho Giáo hội Bulgaria và liên lạc với những anh em Chính Thống giáo để đưa họ về Giáo hội Công giáo.
Sau đó, ngài được chọn làm khâm sứ Tòa Thánh ở Thổ Nhĩ Kỳ (0,66% Công giáo) và Hy Lạp (0,8%Công giáo). Thời gian này ,ngài vận động tòa thánh để viện trợ cho hàng vạn trẻ Hy Lạp khỏi chết vì thiếu ăn. Ông còn đi từ trại giam này đến trại giam khác để an ủi tù binh và tổ chức đưa tin tức cho gia đình họ.
Sứ thần Tòa Thánh tại Paris
Tháng 12 tháng 1944, ngài được Giáo hoàng Piô XII chọn làm Sứ thần Tòa Thánh tại Paris trong thời gian từ năm 1944 – 1953.
Thượng phụ giáo chủ Venezia
Năm 1953, ngài  được tấn phong Thượng phụ giáo chủ Venezia. 
"Đời Giám mục mà cứ phải ngổi bàn giấy và làm ngoại giao thì tội nghiệp quá". "Tôi bắt đầu sứ vụ trực tiếp vào tuổi mà người khác kết thúc hoạt động của mình" (72 tuổi). "Từ nay tôi nghèo hơn trước, một vị hồng y nghèo lo giúp người nghèo... Tôi thấy mình như một bà mẹ nghèo, phải nuôi một đoàn con đông đảo".
Và từ sáng sớm ngài  đã tản bộ trên đường phố còn trống vắng, ghé thăm dân lao động: anh bán tranh, anh hầu bàn quán cà phê, bắt tay người gác cửa khách sạn, hỏi han bà bán rau và cô hàng hoa. Còn buổi tối,  xuống bến đò nói chuyện với dân chài Gondola.
Giáo hoàng
Mật nghị Hồng y
Trước cuộc bầu Giáo hoàng vào năm 1958, ai cũng để ý tới tên tuổi của vị Tổng Giám mục Giovanni Battista Montini thuộc thành Milan, dù lúc đó  vẫn chưa phải là một hồng y. Ngài  là nhân vật lừng lẫy và tài danh và ai cũng đoán là ông này sẽ là Giáo hoàng.
Thế nhưng khi 51 vị hồng y vào phòng họp bầu, sau 4 ngày, các vị đã chọn hồng y thượng phụ giáo chủ thành Venezia là Angelo Roncalli.
Ngày 28 tháng 10 năm 1958, Hồng Y Angelo Roncalli đã trở thành vị Giáo hoàng thứ 261 của Giáo hội Công giáo. Sau cuộc bầu các nhà phân tích nhận định rằng: các hồng y đã chọn một nhân vật tuổi có vẻ cao (77 tuổi) vì hy vọng một triều đại Giáo hoàng ngắn ngủi chuyển tiếp mà thôi.
Ngày 28 tháng 10 năm 1958, vị Giáo hoàng mới đăng quang chào đón giáo dân từ bao lơn cửa sổ nhìn xuống Quảng trường Thánh Phêrô
Xuất thân từ một gia đình nông dân thánh thiện và đạo đức, với nét mặt phúc hậu, dễ mến, Angelo Giuseppe Roncalli đang mỉm cười và nói một cách tự nhiên:
Tôi được gọi là Gioan!.
Đã 78 tuổi đời, tất cả mọi người đều cho rằng ngài là đấng chuyển tiếp, giữ ngôi vị trong một thời gian ngắn chờ đợi cuộc họp mới để bầu lại Giáo hoàng cho nhiệm kỳ tới. 
Thế nhưng chính ngài lại nói "78 tuổi mới làm giáo chủ thì chắc chả có gì lớn, rồi ngẫm nghĩ một lát ông tiếp, nhưng tin tưởng vào Chúa thì không việc gì phải ngại".
Người ta thường gọi ngài là "Ðức Giáo hoàng Gioan Nhân hậu".
Vị Giáo hoàng khiêm tốn này thường bắt chước lời của ông Giuse ở Ai Cập (Cựu Ước) chào hỏi các thành viên của Dòng Ba Phanxicô: "Tôi là Giuse, người anh em của quý vị."

Ra khỏi Vatican
Việc đầu tiên ngài làm là ngày 15 tháng 12 năm 1958, đã cùng một lúc tấn phong 23 vị hồng y đưa tổng số hồng y lên 75 vị vượt con số truyền thống là 70 vị như Giáo hoàng Sixtus đã ấn định năm 1586.
Nhiều người nghĩ ngài chỉ là Giáo hoàng chuyển tiếp, nhưng ngay sau đó người ta đã thấy nơi ngài một nhân cách độc đáo , khi  bỏ cung điện không báo trước sang bệnh viện nhi đồng thăm các cháu thiếu nhi và vào trại giam thăm tù nhân.
Người ta tính rằng, Giáo hoàng Gioan XXIII đã ra khỏi điện Vatican tới hơn 100 lần để viếng các lao xá, bệnh viện, thánh đường, nhà mồ côi và trường học. Đây quả là một sự đoạn tuyệt đối với thói quen từ thời Giáo hoàng Piô IX, là các Giáo hoàng không ra khỏi Tòa Thánh trừ những dịp đặc biệt hoặc để đi nghỉ mát ở Castel Gandolfo.
Giáo hoàng Gioan XXIII không muốn chịu tù túng trong đất Tòa thánh: ngài muốn tiếp xúc với quần chúng, muốn có dịp cảm thông với mọi người. Ngài đi hành hương Loretto, Assisi,...
Tại Assisi, ngài đã tới viếng mộ thánh Phanxico khó nghèo. Dân lao động có thể bao vây quanh ngài để nói chuyện, thanh niên du đãng tại các trại cải huấn thì hoan hô ầm trời khi Gioan đến thăm và tặng quà.
Công đng Vatican
Dưới triều đại Giáo hoàng Gioan XXIII, một biến cố rất lớn và có tầm ảnh hưởng quan trọng trong lịch sử Giáo hội đã xảy ra, đó là việc triệu tập Cộng đồng Vatican II đưa Giáo hội nhập cuộc vào thế giới tân tiến của thời đại ngày nay.
Qua tông sắc “Humanae Salutis”, ngài triệu tập Công đồng Chung XXI, quen gọi là Cộng đồng Vatican II (khai mạc ngày 11 tháng 10 năm 1962). Cộng đồng nghiên cứu về mọi mặt của Giáo Hội: đời sống phụng vụ, các mối quan hệ xã hội, Giáo Hội và thế giới hiện đại, Giáo hội Công giáo và phong trào đại kết.
Chuẩn bị công đồng
Sau một thời gian làm việc chuẩn bị khẩn trương, Công đồng đã mở năm 1962. Đức Giáo hoàng muốn đây là lúc mở toang “các cửa sổ” của Giáo Hội để nhận một luồng gió mát mới mẻ thổi vào. Giáo Hội đang cần sự tiến bộ để theo kịp những trào lưu tân tiến.
Năm 1959, Giáo hoàng Gioan XXIII đã liên tiếp công bố 4 Thông điệp: Ad Petri Cathedram (29 tháng 6), trong đó nói đến mục đích của cộng đồng là đẩy mạnh đức tin, canh tân phong hóa, thích ứng các kỷ cương giáo hội với trình độ tiến hóa hiện đại; Sacerdotii nostri Primordia (1 tháng 8) về chức Linh mục; Grata Recordatio (26 tháng 9) về việc đọc kinh mân côi; và đặc biệt thông điệp Princeps Pastorum (28 tháng 11) nói về công cuộc truyền giáo, đặt hy vọng có nhiều tiến triển trong ngành này.
Ngày 5 tháng 6 năm 1960 nhân lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ngài công bố tự sắcSuperno Dei Nutu tuyên bố chấm dứt giai đoạn “tiền chuẩn bị” và mở đầu giai đoạn chuẩn bị, đặt ra 10 ủy ban chuẩn bị đến sau thêm 2 ủy ban.
Mỗi ủy ban và văn phòng đều có một hồng y làm chủ tịch; tất cả các công việc được tập trung và điều hành bởi một ủy ban trung ương, do chính Đức Giáo Hòang đứng đầu và Giám mục Felici làm thư ký.
Ngày 25 tháng 12, ngài công bố tông hiến Humanae Salutis ấn định Công đồng sẽ triệu tập trong năm 1962.
Khai mạc cộng đồng
Ngày 2 tháng 2 năm 1962, ngài ra Tự sắc Concilium, ấn định ngày khai mạc cộng đồng là ngày lễ Đức Mẹ Thiên Chúa (11 tháng 10). Ngày 22 tháng 2, tông hiến Veterum Sapientia được ban hành nhằm chấn hưng việc học và dùng tiếng La Tinh trong các chủng viện.
Ngày 19 tháng 3, Giáo hoàng tấn phong thêm 10 hồng y nâng con số hồng y lên 87 vị.
Ngày1 tháng 7 Giáo Hòang ban bố một thông điệp dạy làm việc sám hối cầu nguyện cho Cộng đồng và ngày 6 tháng 8 ký tự sắc Appropiquante Concilio ấn định bản quy luật cộng đồng thành lập đoàn chủ tịch gồm 10 hồng y.
Trong thông điệp 11 tháng 9 năm 1962, trước cộng đồng một tháng, ngài nói tới việc: "quét sạch bụi bặm trên khuôn mặt Giáo hội" và khẳng định "Giáo hội phải là Giáo hội của nghèo".
Mười hai ủy ban chuẩn bị được thành lập đã soạn thảo tất cả 70 lược đồ. Trong số 3.070 nghị phụ được mời, thì 2.427 vị thuộc 134 quốc gia đã có mặt ngày khai mạc 11 tháng 10 năm1962 (49 vị thuộc các nước theo Xã hội Chủ nghĩa) ngoài ra còn có 460 chuyên viên Thần học. Số quan sát viên các Giáo hội Kitô khác ban đầu có 31 sau lên đến 93 vị vào cuối cộng đồng. Số giáo dân dự thính là 36 trong đó có 7 phụ nữ.
Phong trào Đi kết
Giáo hoàng Gioan XXIII còn là người mở đường cho phong trào đại kết, tái hợp nhất mọi Kitô Hữu.
Giáo hội Công Giáo trước đây vẫn đứng tách biệt không dính dáng gì đến sinh hoạt đại kết này, vì cho rằng những người Tin Lành phải giải quyết các mâu thuẫn của họ trước khi thảo luận về sự tương giao với Giáo Hội Công Giáo. Các Giáo hoàng tiền nhiệm cho rằng Chúa Giêsu chỉ thiết lập một đức tin và một giáo hội thực, là Giáo Hội Công Giáo.
Trong khi không từ chối tính cách độc đáo của Giáo Hội Công Giáo, Giáo hoàng Gioan XXIII nhận thức rằng tín đồ Công Giáo phải đến với các Kitô Hữu khác và cộng tác với họ để tìm kiếm sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu đã mong muốn cho dân của mình. Giáo hoàng đặc biệt yêu quý Giáo hội Chính Thống giáo, vì ông từng là đại diện của Giáo hoàng ở vùng Cận Ðông. Khi đến lúc triệu tập công đồng, Giáo hoàng Gioan XXIII đã mời các quan sát viên từ mọi truyền thống Kitô Giáo, và đón nhận các ý kiến cũng như suy tư của họ về diễn tiến của công đồng.
Ngày 5 tháng 6 năm 1960, văn phòng "Hiệp nhất Kitô-hữu" được thành lập. Trước ngày khai mạc công đồng Vatican II, nhiều buổi tiếp kiến giữa Giáo hoàng và những nhân vật quan trọng của Tin Lành diễn ra, chẳng hạn như:
·         Ngày 2 tháng 12 năm 1960, Giáo hoàng Gioan XXIII tiếp kiến một giáo chủ Anh giáo là tiến sĩ Fisher
·         Ngày 5 tháng 5 năm 1961, ông tiếp kiến nữ hoàng Anh Quốc  Elizabeth II
·         Ngày 23 tháng 11 năm 1961, Giáo hoàng tiếp kiến mục sư Arthur Lichtenberger, giáo chủ giáo hội Episcopalian Hoa Kỳ.
Ngày 11 tháng 11 năm 1961, ngài ban bố thông điệp Aeterna Dei Sapientia mời gọi sự hiệp nhất của các Ky-tô hữu. Năm 1964 sắc lệnh "Đại kết" của Vatican II được chấp thuận (2137/2148 thuận), cổ vũ đối thoại để hiểu giáo lý của nhau, cầu nguyện chung và hợp tác trong những việc hợp với lương tâm như việc bác ái.
Ngày 15 tháng 5 năm 1961, Giáo hoàng Gioan XXIII đã ban bố thông điệp Mẹ và Thầy . Ngoài ra, ngài cũng đã tìm cách liên lạc lại với giáo hội Trung Hoa.
Hot đng xã hi
Thông điệp Hòa bình trên Trái Đất
Năm 1959, Giáo hoàng Gioan XXIII cổ vũ những phong trào tín hữu ưu tiên phục vụ công tác xã hội. Học thuyết xã hội của Giáo hội đã được bổ sung bằng thông điệp "Hòa bình trên Trái Đất"  và được công bố vào ngày 11 tháng 4 năm 1963 gửi cho tất cả mọi người có thiện ý, nhấn mạnh đến nhân quyền, chống mọi hình thức kỳ thị và đặc quyền đặc lợi, lên án khái niệm “chiến tranh chủ nghĩa”.
Bình luận về thông điệp “Pacem in terris”, ông U Thant, người Miến Điện, cũng là Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nói:
Tôi hết sức sung sướng và cảm xúc khi đọc bản thông điệp “Pacem in Terris”, một thông điệp gửi cho toàn thể nhân loại bất phân tôn giáo, chủng tộc. Nhân dịp này tôi xin phép dâng lên Giáo hoàng Gioan XXIII tấm lòng tôn kính của tôi vì ông đã hết sức khôn ngoan, sáng suốt và không ngừng hoạt động cho hòa bình và cho sự tồn tại của nhân loại.
—U Thant
Giải thưởng Hòa Bình Balzan
Ngài được nhận giải thưởng hòa bình Balzan. Ngày 1 tháng 3 năm 1963, Hội đồng tặng giải thưởng Hòa Bình Balzan gồm 37 thành viên thuộc 21 quốc tịch quyết định tặng giải Hòa Bình cho Giáo Chủ (trong hội đồng có 4 thành viên Liên Xô, cả 4 vị đều nhất trí bỏ phiếu cho Giáo hoàng Gioan XXIII).
Hội đồng ra tuyên bố tặng giải Hòa Bình cho ông:
1.    Vì hòa bình giữa mọi người và giữa các dân tộc, do sự quan tâm không biết mệt mỏi của Giáo chủ để góp phần duy trì những quan hệ hòa bình giữa các nước, bằng cả những lời kêu gọi hòa bình gửi đến thiện chí của mọi người lẫn những hành động về ngoại giao mới đây.
2.    Vì tình huynh đệ giữa người với người và giữa các dân tộc, do sự đóng góp lớn lao của Giáo chủ cho tình huynh đệ ấy; cách riêng trong năm qua Giáo chủ đã mời đại diện các Giáo hội Kitô giáo khác; Chính thống và Tin lành đến dự và đặc biệt tham gia sinh hoạt Công đồng.
3.    Làm như thế, Giáo chủ đã khiến các tín hữu của các Giáo hội đó cũng như của Giáo hội Công giáo có một thái độ hiểu biết lẫn nhau cao hơn và đưa lại những hậu quả vừa nhiều vừa quan trọng.
4.    Giáo chủ đã thiết lập những sự giao tiếp mở rộng ra ngoài cả Cộng đồng Kitô giáo.
Chỉ trong vòng bốn năm của triều đại , Giáo hoàng Gioan XXIII đã tiếp kiến hơn 30 nhà lãnh đạo các quốc gia, nghĩa là hơn cả cố Giáo hoàng Piô XII trong suốt 19 năm trời.
Qua đi
Bắt đầu tổ chức Công đồng, Giáo hoàng Gioan XXIII đang bị bệnh ung thư ruột và trong những tháng cuối cùng thật là khốn khổ. Tuy vậy ngài đi cho đến đoạn đường cuối cùng trong cái vui hài hước và khiêm nhường:
Hành trang đã sẵn và tôi sắp phải lên đường.
—Giáo hoàng Gioan XXIII
Suốt một tháng, toàn thế giới theo dõi cơn hấp hối của Giáo hoàng Gioan XXIII, cho tới khi  qua đời ngày 3 tháng 6 tại Rôma, Ý. Ngài hưởng thọ 82 tuổi và được mai táng trong hầm mộ Vương cung thánh đường Thánh Phêrô tại Rôma.
Trong những lời chia buồn gửi về Vatican người ta nhận thấy có điện văn của Tổng thống Hoa Kỳ, Tổng thống Pháp, Nữ hoàng Elizabeth II và của ông Cút-xếp, một lãnh tụ của Cộng sản Quốc tế. Ngoài ra Tổng thu ký Liên Hiệp Quốc và nhiều lãnh tụ của Phật giáo, Tin Lành,Chính Thống giáo Đông phương,... than tiếc thế giới vừa mất đi một vĩ nhân và một người lãnh đạo đầy nhân hậu.
Phong thánh
Vì là một người Dòng Ba Phanxicô, nên tiến trình phong thánh cho ngài được các tu sĩ Phanxicô xúc tiến. Chỉ trong vòng vài năm ngắn ngủi, ngài được toàn thế giới ngưởng mộ và được tất cả mọi người thương tiếc.
Ngài được phong Chân Phước năm 2000  Quảng trường Thánh Phêrô, Vatican. Kể từ thời Giáo hoàng Piô X, ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên được phong chân phước. Thi hài của ngài, được giữ trong quan tài bằng đồng và kín dày, đã được đưa ra chưng bày cho tín hữu kính viếng, vào ngày Lễ Hiện Xuống, mùng 3 tháng 6 năm 2001, đúng với ngày kỷ niệm Giáo hoàng Gioan XXIII qua đời.
Như đã xảy ra đối với hai Piô XI và Piô XII, Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII, sẽ không được chôn trong hầm dưới Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, nơi chôn cất của nhiều vị Giáo hoàng, nhưng sẽ được đặt bên dưới Bàn Thờ Thánh Giêrôme, nơi phía bên phải của gian chính giữa Vương cung thánh đường, gần nơi tượng Thánh Phêrô bằng đồng.

Ngày 16 tháng 1 năm 2001, ngôi mộ của Giáo hoàng Gioan XXIII đã được khai mở, trước sự hiện diện của Hồng Y Angelo Sodano, quốc vụ khanh Tòa Thánh, của Tổng Giám mục Leonardo Sandri, phụ tá quốc vụ khanh, và của Hồng Y Virgilio Neo, kinh sĩ trưởng củaVương cung thánh đường Thánh Phêrô, để nhận thực thân xác của Giáo hoàng Gioan XXIII. Và trong dịp nầy, các chứng nhân đã xác nhận là gương mặt của Giáo hoàng Gioan XXIII còn nguyên vẹn, không bị hư đi.
(Nguồn: tóm tắt từ  Wikipedia.org)