Niềm tin vào Ðấng Phục Sinh
Sr. Inê Nguồn: www.btinternet.com |
Niềm Tin Vào Ðấng Phục Sinh
Cv 10,34a. 37-43; Cl 3,1-4 hay 1Cr 5,6b-8; Ga 20,1-9 Một em bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu ? Người mẹ đáp: -Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Em bé ngạc nhiên hỏi mẹ: -Khi mẹ mất vật gì tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ đáp: -Phải. Bé nói tiếp: -Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất ? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng Chúa Phục Sinh. Thật vậy, Chúa Ki-tô đã Phục Sinh như trong tin mừng Gio-an 20,1-9 đã tường thuật một cách tỉ mỉ như một nhân chứng đã mắt thấy tai nghe, diễn tả hành trình mà các tông đồ, cụ thể là 3 nhân vật: Ma-ri-a Mac-đa-la, Phê-rô và Gio-an đã trải qua để tiến đến niềm tin "Chúa đã Phục Sinh". Chúng ta có thể suy niệm về vai trò của Phêrô và Gioan trong ý nghĩa về Giáo hội học. Nhưng hôm nay chúng ta lưu ý đến chính cuộc phục sinh của Chúa Kitô và ý nghĩa của biến cố này. Thánh Phao-lô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, ...chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền" (1Cr 15,12-19). Vậy Phục Sinh là gì ? Ðâu là ý nghĩa của biến cố Phục Sinh ? Phục Sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp con trai bà góa thành Na-im (Lc 7,11-17), con gái ông Gia-ia (Lc 8,40-56), và đặc biệt là ông La-za-rô (Ga 11,1-45). Cả ba trường hợp này người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ, có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là phải trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết. Trường hợp của Chúa Giê-su hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết nhưng khi nói rằng Ngài Phục Sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi chết lại. Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài. Nhưng quan trọng hơn nữa, Chúa Kitô Phục sinh trở nên nguồn sự sống và sự sống lại của chúng ta. Ðiều Chúa nói trước đây: "Ta là sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,24) bây giờ trở nên sự thực qua việc Chúa sống lại. Là những chứng nhân của Ðấng Phục Sinh các môn đệ Ðức Giê-su đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài, Tin Mừng ấy là: Ai tin nhận Ðức Giê-su, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được Phục Sinh như Ngài. Ngày nay tất cả mọi người tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là là niềm tin vào sự Phục Sinh của Ðức Giê-su Ki-tô. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Ki-tô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm, và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh. Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, Ðấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, xin ban cho chúng con niềm tin mãnh liệt vào quyền năng Phục Sinh của Chúa. Xin cho chúng con sáng suốt nhận ra Ngài trong mọi biến cố cuộc đời. Nhất là xin cho chúng con luôn hăng say loan báo và làm chứng cho Ngài bất chấp mọi thử thách gian nan. Amen. |
Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013
NIỀM TIN PHỤC SINH
Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013
THÁNH GIÁ - THỨ SÁU TUẦN THÁNH
1. Thập Giá khác
với Thánh Giá
Thập giá và Thánh Giá khác nhau một trời một vực: thập giá
là do lòng hận thù độc ác của loài người sản xuất ra, còn Thánh Giá là do lòng
yêu thương vô bờ vô bến của Thiên Chúa sáng tạo nên. / Trước khi trở thành
Thánh giá, thập giá là hai miếng gỗ sù sì, trần trụi, gồ ghề, nặng nề, bắt chéo
vào nhau như một hình chữ thập, dùng để giết người một cách rất dã man.
Thập giá là hình khổ kinh khủng nhất, do người Rôma độc ác bày ra để hành hạ và
giết chết những kẻ phản loạn, những người nô lệ, những ai bị họ đặt ra ngoài
vòng pháp luật. Thập giá ghê tởm nầy, cách đây hơn 2000 năm, đã được Chúa Giêsu
vác lên Núi Sọ và bị đóng đinh chết vào đó. Và kể từ đó, kể từ khi Con Đức Chúa
Trời chịu đóng đinh chết tất tưởi trên thập giá, thì thập giá đã trở nên Thánh
Giá lạ lùng. Lạ lùng đến nỗi loài người không thể nào hiểu được và không thể
nào cắt nghĩa được. / Trước, thì thập giá quá đên tối, quá kinh tởm, quá tủi
nhục; nay, thì Thánh Giá quá sáng chói, quá hấp dẫn, quá cao sang. / Trước, thì
thập giá chỉ có mặt nơi tử địa, nơi pháp trường, nơi những chổ đê hèn nhục nhã;
nay, thìThánh Giá có mặt khắp nơi, nơi trang trọng nhất, nơi cao sang nhất. /
Trước, thì thập giá bị chối từ, bị nhờm gớm; nay, thì Thánh Giá được ôm ấp,
được ao ước, được mang nơi ngực, được đeo nơi cổ, được hôn kính dấu yêu. Trước,
thì thập giá được làm bằng lọai gỗ sần sù, lởm chởm; nay, thì Thánh Giá được
làm bằng vàng, bằng bạc, bằng mọi thứ kim loại đắc giá nhất trên đời nầy.
2. Vì sao người Công Giáo chúng ta lại dành cho
Thánh Giá một địa vị vô cùng đặc biệt như thế?
Vì trên Thánh Giá, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, vì
yêu thương loài người quá bội, nên đã nộp mình chịu chết để cứu chuộc loài
người, để cho loài người được sống.
3. Nhìn lên Thánh Giá, người Công Giáo chúng ta
thấy hai chữ gì?
Nhìn lên Thánh giá, người Công Giáo chúng ta thấy hai chữ ĐAU
KHỔ. / Trên
thánh giá, Chúa Giêsu nếm chịu mọi nỗi đau khổ: đau
khổ vật chất (bị lột
hết áo quần ra, không một mãnh vải che thân); đau khổ thể xác (từ trên đỉnh đầu cho đến dưới bàn
chân, chẳng chổ nào là chẵng xể xài rách nát, cùng bày xương ra...); đau
khổ tinh thần (bị sĩ
nhục, bị bỏ vạ, bị cáo gian, bị chửi rủa thậm tệ); đau
khổ tâm hồn (thấy
trước đủ mọi tội lổi tầy trời của loài người chống lại Thiên Chúa, thấy trước
mọi vong ân bội nghiã của loài người đối với Thiên Chúa ); đau
khổ tình cảm (thấy
những người thân yêu, nhất là Mẹ yêu dấu của mình, đang ở dưới chân mà không an
ủi gì được).
4. Nhìn lên Thánh Giá, người Công Giáo thấy hai
điều trái ngược nào?
Nhìn lên Thánh Giá, người Công Giáo chúng ta thấy hai điều trái
ngược: Vô Tội - Bị Kết Án. / Đấng vô tội, bị kết án; Đấng
công chính, bị vu cáo; Đấng vô cùng thánh thiện, bị đày ải; Đấng cao sang vô
cùng trên trời dưới đất, bị hành hạ, bị đóng đinh chết; Đấng toàn năng, phép
tắc vô cùng, bị sĩ nhục; Đấng giàu có vô cùng, bị trần truồng nhuốc hổ; Đấng
sáng láng vô cùng, bị tối tăm vây phủ; Đấng là sự sống, thì nay lại tắt thở và
chết. / Nhưng, sau khi nếm cái chết chẳng đủ ba ngày, Chúa Giêsu sống lại, đánh
bại tủ thần, và ban cho những ai biết đi theo Ngài trên Con Đường Thánh Giá và
bằng lòng chết với Ngài trên Cậy Thánh Giá, được sống lại và sống muôn đời.
5. Truyện - Sợ Thánh Giá là nỗi khổ nhất của chúng
ta
Thánh Vianê nói rằng sự sợ Thánh Giá là nỗi khổ nhất của chúng ta.
Ngài nói như sau: “Trên con
đường của Thánh Giá, chỉ có bước đầu mới gay go. Sợ Thánh Giá là nỗi khổ nhất
của chúng ta. Phần đông loài người từ chối Thánh Giá và tìm cách chạy trốn.
Nhưng họ càng chạy trốn thì Thánh Giá càng đuổi theo họ, càng tấn công họ, càng
đè nặng trên mình họ, … Vậy chúng ta hãy tiến lên để đón lấy Thánh Giá như
thánh Anrê khi thấy Cây Thánh Giá quân lý hình đang dựng lên trước mặt: “Kính
chào Thánh Giá đáng yêu, đáng chuộng! Chớ gì Thánh Giá hãy đón nhận tôi và trao
tôi về với Thầy tôi là Đấng sẽ dùng Thánh Giá để cứu chuộc tôi.”
6. Truyện - Thánh Giá riêng của mỗi người chúng ta
Thánh Giá Chúa cho chúng ta đang mang là Thánh Giá rất vừa sức
chúng ta. Câu chuyện minh họa sau đây chứntg minh điều nầy. / Có một người luôn
than van về những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, Chúa sai thiên thần hiện
đến, phán bảo ông ta: “Con
hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó, người ta để lại Thánh Giá của mình rất nhiều.
Con hãy mang Thánh Giá của con ra đó và hãy lựa một Cây Thánh Giá khác cho vừa
sức con.” / Ông ta vui mừng, đem thánh giá của mình ra quăng nơi
nghĩa địa và quyết đổi lấy một cây cho vừa sức mình. / Ông hăng hái lựa chọn,
nhưng lựa mãi vẫn không được: có cây quá dài, khó vác; có cây quá ngắn, cũng
khó vác; có cây nhẹ nhưng lại sù sì, lởm chởm, khó vác; có cây trơn tru nhưng
lại quá nặng. / Ông lựa suốt đêm mà không được. Cuối cùng, ông nói với
thiên thần: “Thưa thiên
thần, đối với con, cây nào cũng khó vác. Chỉ có cây mà con định vất đi, là vừa
sức con mà thôi.” / Thiên thần gật đầu: “Phải, Chúa đã trao cho con một Cây
Thánh Giá vừa sức con, con hãy cám ơn Chúa và vui lòng vác nó. Chúa rất thương
con. Từ nay, con đừng than van nữa nhé!”
7. Truyện –
Thánh Giá là suối nguồn ban sức mạnh
Cha Giuseppe da Lionessa, thuộc Dòng Phanxicô, sắp sửa lên bàn mổ
để được giải phẩu vết thương. / Thấy các nhân viên y tá đem giây ra để trói
ngài lại trước khi đưa ngài lên bàn mổ, cha Giuseppe da Lionessa cầm tượng Chúa
Giêsu Chịu Đóng Đinh và nói: “Giây
thừng làm gì, giây thừng làm gì? Đây là những giây trói của tôi: Chúa tôi đã bị
đóng đinh vì yêu tôi, chính Ngài dùng những nỗi đau đớn của Ngài để ôm chặt tôi
và giúp tôi chịu dựng mọi khổ cực vì lòng yêu mến Ngài.” Và cha Giuseppe da Lionessa im
lặng đau đớn chịu giải phẩu...
8. Đối với người công giáo chúng ta, Thánh Giá của
Chúa Giêsu là nguồn hy vọng rạng ngời, là nguồn hạnh phúc vô biên.
Người công giáo chúng ta tung hô Thánh giá là Cây đã chuộc muôn
dân đặng rỗi, là Cây làm cho kẻ có phước được phần vui mừng, là Cây làm cho kẻ
có tội được lòng trông cậy, là Cây làm cho kẻ yếu đuối được nhờ sức mạnh, là
Cây làm cho kẻ khốn nạn được sự an lành, là Cây tốt lành rất mực, diềm dà im
mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình; là gươm giáo dẹp giặc linh hồn, khử
trừ đánh diệt tam cừu oan gia, sát phạt tà ma, thịt mình, thế tục; là chìa khóa
mở cửa thiên đàng, đưa chúng ta vào nơi Quê Thật.
9. Thánh Giá gồm Ba Mầu Nhiệm Cao Siêu Nhất trong
Đạo Công Giáo
Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi + Mầu Nhiệm Ngôi Hai Xuống Thế Làm
Người + Mầu Nhiệm Thiên Chúa Cứu Chuộc Loài Người. / Từ Ba Mầu Nhiệm Cao
Siêu Nhất này, người Công Giáo rút ra tất cả những gì phải tin, phải giữ và
phải sống theo để cho được xứng danh là người theo Chúa Giêsu Kitô.
10.
Thánh Giá dạy người Công Giáo chúng ta những bài học mà Chúa Giêsu đã truyền
dạy phải sống và thi hành
Hình thẳng hướng lên: Hãy sống mến Chúa! / Hình
ngang rộng ra: Hãy
sống yêu người! Tay Chúa giăng ra: Hãy rộng mở đôi tay đối với mọi
người, không xua đuổi ai; hãy tha thứ mọi xúc phạm của người khác đối với chúng
ta, không loại trừ xúc phạm nào. / Tay Chúa bị đóng đinh: Hãy dùng đôi tay để cầu nguyện, để làm
việc, để lao động, để giúp đỡ, để bố thí. + Hãy biết đền tội cho đôi tay của
mình là đôi tay thường biếng nhác, cắp trộm, đánh đập kẻ khác, dâm ô hèn hạ. / Chân
Chúa bị đóng đinh: Hãy
dùng đôi chân để đi Nhà Thờ, để đi làm việc đạo đức bác ái, để đi làm việc hữu
ích. + Hãy biết đền tội cho đôi chân của mình là đôi chân thường đi vô ích, đi
đến nơi tội lỗi, đi đến với kẻ phạm tội. / Tim Chúa bị đâm thủng: Hãy thắp lửa mến Chúa và yêu
người trong trái tim của mình. + Hãy tắt lửa dục tình trong lòng mình. + Hãy
biết ăn năn thống hối về những tội mình đã vô tình và vô ơn đối với Chúa.
11.
Người Công Giáo chúng ta đối với Cây Thánh Giá và đối với Hình Thánh Giá thế
nào?
Người Công Giáo chúng ta hãy đặt Thánh Giá nơi chỗ cao trọng nhất
trong nhà mình. / Hãy đeo Thánh Giá trên ngực là nơi đầy ý nghĩa nhất trong con
người của mình. / Hãy làm Dấu Thánh Giá trên con người của mình, làm một cách
nghêm trang, trân trọng, khoan thai, sốt sắng, và làm cho ra Một Hình Thánh Giá
cân đối. / Hãy năng nhìn lên Thánh Giá để tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu đang đau
khổ vì tội lỗi của loài người. / Hãy luôn mang Thánh Giá trong tâm hồn mình để
tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu, luôn mang Thánh Giá trong đầu óc mình để suy niệm
về tình Chúa Giêsu yêu thương loài người. / Và nhất là, trong cuộc sống của
mình, người Công Giáo chúng ta hãy luôn sống và thực hành những bài học của
Thánh Giá Chúa Giêsu.
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang góp ý
( tonggiaophanhue.net )
Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013
LỄ PHỤC SINH Ở QUÊ TÔI
LỄ PHỤC SINH Ở QUÊ TÔI
Lễ Phục Sinh ở quê tôi khi xưa là những gì thật đáng nhớ.
Cách nay khoảng hai phần ba thế kỉ, nghĩa là trước vụ đói tháng Ba
năm 1945, khi ấy còn thời Pháp thuộc, tôi đang cắp sách đi học trường làng ngày
hai buổi, ngây thơ và hồn nhiên với lũy tre xanh, với những sinh hoạt bình
thường trong xứ đạo, với những phiên chợ thật đông người, súc vật và hàng hóa
và với những ngày hội của làng, của tổng, của ngôi chùa làng cổ kính thỉnh
thoảng có một cuộc rước linh đình.
Bọn trẻ chúng tôi không biết mùa chay bắt đầu từ ngày nào,
khi cha mẹ, ông bà bữa đó bảo, thứ tư này lễ Tro, thứ sáu này chúng mày phải ăn
chay, kiêng thịt đấy nhé thì cứ thế mà làm.
Cả gia đình ăn chay, từ ông cụ bà cụ 70 cho đến đứa cháu 7, 8
tuổi. Chỉ những đứa bé ba, bốn, năm tuổi hoặc ốm yếu, đang bị bệnh hay người
đàn bà đang phải dùng sữa mẹ nuôi con thì mới được nhưng trừ mà thôi.
Ăn chay dạo đó thế này.
Thay vì sáng ra ăn cơm thì phải nhịn, nhịn mà làm việc thì cũng hơi
khó nên phải cố gắng. Những việc nặng nề như cày, bừa, cuốc đất, gánh đội
v.v...không làm vào những ngày thứ sáu đó mà lựa những việc nhẹ nhàng hơn như
cào cỏ, săn sóc vườn tược, phát bụi tre, sửa chuồng gà, chuồng lợn... để có thể
làm được với cái bụng trống không từ buổi sáng đã quen ăn trước khi ra đồng.
Mười hai giờ trưa, khi chuông nhà thờ đổ một hồi dài, cả nhà quây
quần ăn bữa cơm chính trong ngày, được ăn no.
Vùng quê tôi, bữa trưa này người ta thường nấu canh khoai, một loại
môn, có loại hơi ngứa nên cũng gọi là khoai ngứa, có loại không. Khoai nấu với
cá hoặc tôm, tép và mắm tôm, mắm tép. Nồi cơm và nồi canh khoai ngứa đều to để
cả nhà, thường cả chục người, ăn cho đủ no. Thức ăn mặn thì tùy theo cái gì có
hoặc đi mua: cá rô, cá diếc kho, tôm tép kho...miễn không phải là thịt và một
đĩa giưa cải bẹ nén chua hoặc cà nén...
Nếu không nấu canh khoai, mẹ tôi nấu một nồi canh chua, có cá lác,
bắp cải, cà chua, lá me đất cho chua, rau ngổ. Cá lác chỉ nhỏ bằng ngón tay
trỏ, chỉ có một cái xương sống, thịt nhiều và thơm. Thứ canh này nấu với cá lác
rất hợp. Mùa này đã nhiều nhót, mẹ tôi còn cho thêm vào nồi canh dăm quả nhót,
cho chất chua rất ngon.
Nhót khi chín mầu đỏ như cà chua, hình bầu dục, nhỏ như trái trứng
gà con so; khi ăn phải cạ nó vào tay áo hay khăn mặt khô cho những cái lấm tấm
trên vỏ bung ra, xong mới ăn. Mấy người đàn bà có thai thích ăn trái nhót vì nó
chua chua giốt giốt rất ngon. Cây nhót nhỏ như cây hoa nhài, cành mềm la đà
trên mặt đất, rất sai trái.
Ăn xong bữa trưa, nghỉ ngơi vài chục phút rồi lại bắt tay vào làm
cho đến chiều khoảng 5 giờ thì có một bữa nhỏ nữa. Bữa này người lớn được ăn
một bát (chén ăn cơm), trẻ con non một bát với chút rau luộc, giưa nén, tép kho
... Ăn xong là đứng lên mặc dù cái bụng còn đói nguyên. Nước chè tươi, chè khô
được uống thả dàn. Sau đó mặc quần áo đến nhà thờ đọc kinh tối.
Các thứ sáu trong mùa chay đều như thế, thứ tư Lễ Tro cũng ăn chay,
kiêng thịt. Có nhiều người ở Hoa Kỳ hiện nay, ăn chay sướng hơn ăn mặn. Ăn mặn
thì thịt gà khoảng một đô-la một pound. Kiêng thịt, quay ra ăn cua “king crab”
hoặc tôm hùm, khoảng 10 đô/pound, hay cá salmon cũng phải 5-7 đô/pound. Ăn như
thế, theo tôi, có lẽ không nên gọi là ăn chay. Ăn chay bên Phật giáo, người ta
chỉ đậu hũ, tương chao, rau muống luộc. Thời Chúa khi xưa, kiếm mấy con cá thì
dễ mà kiếm miếng thịt bò, thịt gà thì khó nên mới buộc không được ăn thịt vì
thịt cao cấp hơn. Chứ nếu kiêng thịt để ăn tôm hùm, “Alaska king crab” và cá
thu sốt chua ngọt thì ăn thịt gà 7-8 chục cents/pound mà lại đánh xác hơn!
Chúng ta nên để ý điều đó!
Riêng tuần Thánh, mọi sinh hoạt phụng vụ đều khởi sắc rõ rệt.
Chiều thứ năm, chúng tôi đi dự lễ Rửa chân, thường cha xứ chủ sự lễ
này với tông đồ là mười hai vị trùm trưởng cao niên, vị vọng trong giáo xứ. Khi
nào thầy tôi về thăm quê vào dịp Phục sinh, thầy tôi cũng được mời mặc áo tấc
tím, đội khăn xếp chữ nhân, quần chúc bâu trắng, đi giầy Gia định để làm một
ông thánh tông đồ của Chúa khi xưa.
Dạo ấy, nhìn nghi lễ này, bọn trẻ chúng tôi chỉ có ý nghĩ là giáo
hội muốn nhắc lại những gì xưa Chúa Jesus Christ đã làm cho các tông đồ và cộng
đoàn của Ngài. Nhưng sau này, khi lớn lên, đầu óc đã trưởng thành, tôi mới thấy
ý nghĩa đích thực của Lễ Rửa chân.
Cái ý nghĩa sâu xa, theo tôi nghĩ, là Chúa muốn cho ta tập đức
khiêm nhường. Một người cao trọng, quyền năng, thông thái xa vời như Ngài, ngay
với Cộng đoàn và các tông đồ của Ngài, lại quì xuống rửa từng bàn chân lấm láp
của môn đệ mình. Phải có một tấm lòng khiêm nhường thế nào mới làm được điều
đó.
Ngài cũng cho mọi người biết rằng, nếu Ngài có thể rửa chân
cho mọi người thì mọi người cũng nên rửa chân cho nhau, hay là phục vụ nhau như
Ngài đã phục vụ mọi ngưòi. Khi đã rửa chân cho nhau thì “cái ta” kênh kiệu,
kiêu căng, phách lối, làm tàng, kể công, ỷ thế không còn nữa mà tất cả chỉ còn
là thương yêu và bình đẳng bởi mọi hố ngăn cách, chia rẽ, đố kị, ngay cả hận
thù đã được san bằng.
Chính khi con người làm việc rửa chân cho bạn hữu, cho cả những
người xa lạ chưa hề quen biết mà con người thấy một niềm vui vô tả trong lòng
là đã ăn ở khiêm nhu, trọng người khác và yêu thương người khác như người thân
của mình (tôi không dám nói như chính bản thân mình, như Chúa dạy, vì nó cao
quá.)
Ngày nay con người thiên về vị kỉ, thần thánh hóa chính mình và bắt
những người thuộc quyền phải tôn thờ mình, tôn thờ cả những cái ngu dốt và độc
đoán của mình, cả những cái kiêu căng phách lối hợm hĩnh của mình. Mọi người,
kể cả vua chúa, chức quyền đời, đạo, tôi nghĩ, nên học thuộc câu phương ngôn
Pháp:
Cái tôi là cái đáng ghét.
(Le moi est haissable – The self is hateful)
Lễ Rửa chân của Chúa chính là một bài học cho chúng ta và cho
những người đó bởi khiêm nhu là nhân đức rất khó tập thành. Có những người, từ
trong máu đã có bệnh kiêu ngạo, coi người khác như rơm như rác, còn cái gì của
mình đều là ngọc là vàng. Từ đó, chúng ta cũng có thể nói:
Kiêu căng là cái đáng ghét – The arrogance is hateful.
Nhất là những kẻ kiêu căng tầm ruồng không có đức tính gì quí đáng
để cho người ta học hỏi.
Trở lại với lễ Rửa chân, thỉnh thoảng chúng tôi cũng sang tận tòa
Giám mục Bùi Chu dự lễ Rửa chân do chính vị Giám Mục địa phận chủ sự. Từ nhà
tôi đi Bùi cũng khoảng 6 km nhưng lúc đó, ở thôn quê đi đâu cũng cuốc bộ, giầu
cũng như nghèo, nên coi là xa.
Ngày thứ sáu, buổi tối, ở mỗi nhà thờ có ngắm 15 sự thương khó Đức
Chúa Giêsu. Người ta thiết lập một cái bàn cao phủ vải tím, đồng mầu với màn
treo trong nhà thờ. Một bục cao hai, ba bậc để người lên ngắm trèo lên đứng
trên đó, cuốn sách ngắm đã mở sẵn, nhìn vào sách mà đọc, mà ngân nga theo đúng
âm điệu của “ngắm đứng” (cũng gọi là ngắm nhân tài) cho đến hết bài ngắm.
Phía sau cái bàn này là một cụ già hoặc trùm trưởng trong xứ
thạo về ngắm đứng, hễ nghe một âm điệu hay thì điểm một tiếng trống con thưởng
cho người đang ngắm như kiểu trống chầu trong các nhà cô đầu. Người nào có
nhiều tiếng trống thưởng có nghĩa ngắm hay. Khi nghe người ngắm đọc tiếng Amen
nghĩa là bài ngắm đã dứt thì cả trống con, trống cái nổi lên một hồi râm ran
nghe rất vui, bọn trẻ chúng tôi rất phấn khởi. Và phía phụ nữ trong nhà thờ đọc
một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng (không có Sáng danh) để nhân tài chuẩn bị
bài ngắm kế tiếp.
Bên ngoài nhà thờ không thiếu gì người ngồi, đứng, trò chuyện từng
nhóm. Họ cầm trí ở trong nhà thờ cả tiếng nay phải ra ngoài xả hơi một chút,
nói chuyện nhỏ nhỏ, kiếm nước uống rồi lại vào nghe ngắm tiếp. Đám thanh nam
khá đông, còn đàn bà chỉ những người có con nhỏ, chúng khóc đòi ra chứ không có
bóng dáng các cô gái. Phụ nữ Việt khi xưa vẫn được tiếng là hiền thục, ngoan
ngoãn hầu hết. Không hiểu ngày nay ra sao với trào lưu mới, có còn giữ được nếp
cũ của truyền thống tốt đẹp khi xưa?
Người lớn ăn chay nhưng trẻ con nhỏ nhỏ chúng đâu có chịu ăn chay
ăn vỏ gì. Xung quanh nhà thờ vẫn có những hàng bánh kẹo, như bánh chưng, bánh
dầy giò, xôi, bánh dầy đỗ, bánh rán, kẹo bột, kẹo gừng, kẹo vừng, sâu dâu
v.v...có khi cả phở, mấy bà mẹ muốn con không quấy để suy ngắm bắt buộc phải
mua vài hào cho chúng ăn mới yên.
Đêm thứ sáu, khoảng 10 giờ hay 11 giờ, nghi thức đóng đinh Chúa sau
khi 15 ngắm đã xong. Giáo dân tập họp cả trong nhà thờ, đông kín không còn một
chỗ trống. Vị Linh Mục đọc hoặc nói lại sự tích Chúa bị đóng đinh. Rồi ở đàng
sau bức màn nơi cung thánh, người ta nghe những tiếng búa nện trên đinh như
thiệt. Sau đó sáu, bảy người ăn mặc theo lối La Mã khi xưa, dựng cây thập tự
lên, trên đó Chúa, máu me đầy mình và mạo gai trên đầu, đã bị đóng đinh. Vì xứ
tôi có nhiều nhà gọt tượng gỗ và đúc tượng thạch cao, tượng chịu nạn này to gần
như người thật.
Có những tiếng khóc nhỏ nhỏ ở bên dưới vì thương Chúa chịu khổ hình
vì tội loài ngưòi.
Các khu trong giáo xứ phân chia giờ giấc để luôn luôn trong nhà thờ
lúc nào cũng có một nhóm đọc kinh hoặc suy ngắm những sự thương khó Chúa cho
đến sáng mai.
Ngày thứ bảy là ngày đi hôn chân Chúa. Người lớn, trẻ con rủ nhau
đi từng nhóm đến nhà thờ giáo xứ và các nhà thờ trong vùng đọc kinh và
lên hôn chân Chúa, thường đặt nằm trong cỗ quan tài, để hai chân với tư thế bị
đóng đinh ra cho giáo dân hôn vào ngay chỗ vết đinh, trên đó đã có xức
dầu thơm và nhất là xung quanh Chúa, người ta lấy hoa soan và nả bỏ đầy.
Hoa soan mầu tím nhạt, cùng họ với hoa dạ hương, mùi thơm tuyệt
vời, nhẹ hơn mùi dạ hương, dùng ướp xác Chúa thì không còn thứ hoa nào hợp hơn.
Ngoài hoa soan, người ta cũng còn rang thóc, gọi là nổ (nả), hay bắp rang, bỏ
vào xung quanh Chúa cùng với hoa soan. Trẻ con lên hôn chân Chúa nhiều lần
không biết vì thuơng Chúa thực hay vì những hạt nổ, hạt bắp rang rất hấp
dẫn? Dù sao, phải có trẻ con lễ Phục Sinh mới vui và trẻ con đã
thật vui với những kỉ niệm dễ thương và khó quên đó.
Chiếu thứ bảy, giáo xứ nào cũng rước Thánh giá đi đường kiệu xung
quanh. Sau đó người ta ngắm bảy sự đau đớn của Đức Mẹ.
Tùy nơi, khoảng 8 hoặc 9 giờ, giáo dân tụ họp và nghi thức Phục
Sinh bắt đầu. Ở Bùi Chu, nhà thờ chính tòa, Giám Mục làm phép nước, lửa, cây
nến Phục Sinh, nghi thức thật dài. Sau đó là Chúa sống lại, giáo dân hân hoan
kiệu Chúa Phục Sinh xung quanh nhà thờ. Ngày Chủ nhật Phục Sinh, nhà thờ được
trang hoàng bằng cờ hội thánh, hoa tươi thật đẹp và đèn nến sáng choang.
Người giáo dân vùng quê tôi, địa phận Bùi Chu và cả giáo dân ở địa
phận Phát Diệm có thói quen ăn mừng lễ Chúa Sống lại.
Người ta đánh cá dưới ao lên hay đánh đụng một con lợn, giết vài
con gà hay có thể là một con cầy tơ. Bến sông toàn những người mổ cá, mổ chó,
mổ gà, mổ ngan ngỗng. Có thể nhiều ngày tháng đã phải ăn uống đạm bạc nhưng đến
lễ Phục Sinh, năm một lần, sau những ngày chay ép xác, người chủ gia đình muốn
cho vợ con hưởng một chút thịt thà, cá mú, hoa quả ngon lành để cho lên tinh
thần và lấy sức mà làm việc, những công việc đồng áng, nuôi tằm hái dâu nặng
nề, thức khuya dậy sớm hoặc tất tưởi buôn chợ Đông bán chợ Tây, làm hàng xưng
hàng xáo quanh năm.
Thầy tôi chỉ ở nhà được một tuần, tuần Phục Sinh. Trong tuần đó,
ngoài những việc lễ lạy phụng vụ, thầy tôi đi kiếm những người chuyên lo về lấy
và sao chế các vị thuốc Nam như trần bì, sài hồ, hoàng bá...rất nhiều vị khác
tôi chỉ biết mặt nhưng không nhớ tên. Thày tôi mua lại họ để đem ra Hải Phòng
hoặc Hà Nội, gia giảm với các vị thuốc Bắc (của Tàu) khi “cắt” thuốc cho bệnh
nhân. Thầy tôi nói, nhiều vị thuốc Nam hay lắm nhưng người Việt mình không biết
công dụng của nó nên coi thường. Người Tàu bảo: “Người Việt sống trên đống
thuốc mà chết”. Thầy tôi biết cách dùng chúng nên nhiều khi thang thuốc không
tốn tiền nhiều như toàn vị Bắc nhưng lại công hiệu hơn, bệnh nhân mau khỏi hơn.
Thầy tôi đi Hà Nội hôm trước thì hôm sau tôi xách cặp và lọ mực đi
học với nắm cơm mẹ nắm bằng mo cau còn nóng hổi ở trong cặp với vài mảnh cá
khô. Đó là tất cả bữa trưa của tôi trong suốt thời gian học tiểu học. khi nào
đổi bữa thì có mấy con tôm, con tép kho, lâu lâu mới có nhát giò ăn với xôi và
quả cam sành hay quả na (mãng cầu dai) hái từ vườn nhà.
Sau buổi học chiều, khoảng 5 giờ, tôi lại cuốc bộ về. Khi nào trời
nắng ráo thì khá còn mưa gió thì đường lầy lội, có chỗ lỗ lội sâu trên đầu gối,
lọng ngọng té nằm xoài là bùn trát từ đầu đến chân, mất cả sách vở. Ngày nay ở
Hoa Kỳ, nhìn những bữa ăn điểm tâm và những bữa ăn trưa của học sinh tiểu học
và trung học, tôi cảm thấy một nỗi buồn cho người Việt mình: nghèo quá! Cái khó
nó bó cái khôn. Qua bao nhiêu thứ bệnh tật và ba, bốn cuộc chiến tranh, sống
được đến ngày nay là có diễm phúc lắm rồi.
Bữa tối ăn chung với gia đình thật vui, canh, rau đầy đủ để bù lại
bữa trưa của tôi chỉ cốt ăn cho no, cho xong rồi học.
Lễ Phục Sinh 2007
Nhà Văn Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC
Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013
CÁC CON HÃY RỬA CHÂN CHO NHAU
THỨ NĂM TUẦN THÁNH còn được gọi là thứ năm rửa chân là ngày bắt đầu trong Tam Nhật Tuần Thánh .
Trong ngày này , bốn sự kiện lớn được kỷ niệm : ngày
Chúa Giê su rửa chân cho các tông đồ ; ngày Chúa lập ra Bí tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly ,
ngày Chúa Giê su cầu nguyện ở vườn cây dầu
ô liu , và là ngày Judas Iscariot phản bội Chúa
.
Đối với người Do Thái xưa , việc rửa chân cho người khác là một việc thấp hèn , và là công việc của tôi tớ , của nô lệ .
Thế mà trong buổi chiều này , Chúa Giê su là Thầy , là Chúa đã hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ của mình .
- Đây là một hành động tột cùng của sự yêu thương ; tột cùng của lòng khiêm nhường , một trong những nền tảng của mọi nhân đức mà Chúa Giê su rao giảng .
- Chúa Giê su đã xác định : " Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em " (Mt 20:26) , và trong bữa ăn tối này Chúa đã thực hiện , đã làm chứ không nói suông để nêu gương : " Con Người đến không phải để được người ta phục vụ , nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người " ( Mt 20:28 )
- Phàm cái gì bẩn thì mới rửa , nên " rửa " còn có nghịã là tha thứ ở cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng . Chúa Giê su đã rửa chân cho cả môn đệ đã phản bội Ngài ; và đã tha thứ không phải 7 lần mà là bảy mươi lần bảy . Lòng thương xót của Ngài quá lớn lao : " Lạy Cha , xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm " ( Lc 23 :34 ) .
Khi tham dự ngày thứ năm tuần thánh này , chúng ta hãy suy gẫm việc Chúa Giê su đã làm và cảm nghiệm niềm hân hoan hạnh phúc khi noi gương Thầy chí thánh , đại tướng của chúng ta , của những người huynh trưởng HTDC : bằng cách sống khiêm cung , phục vụ và mau mắn tha thứ mọi lỗi lầm cho nhau .
Lạy Chúa , xin hãy rửa sạch tội lỗi chúng con và cứu độ cho chúng con .
Sau đây xin mời xem một số hình ảnh nghi lễ rửa chân ở một số nơi trong những năm qua , ở trong nhà thờ cũng như ngoài đời .
* Đức Giáo Hoàng Phanxico khi còn làm TGM giáo phận Buenos Aires - Jorge Mario Bergoglio tại buổi lễ thứ Năm tuần Thánh năm 2008 đã rửa chân cho người nghèo và người nghiện ma túy.
Đặc biệt trong ngày thứ năm tuần thánh hôm nay ( 28/03/2013) , Đức Giáo Hoàng Phanxico I sẽ đích thân rửa và hôn lên chân 12 tù nhân bị giam trong một buổi lễ tại nhà nguyện ở trại giam Casal del Marmo tại Rome .
* Đức cha Anton Vũ huy Chương ở Nhà Thờ Chánh Tòa Đà Lạt
* Thứ năm rửa chân tại một nhà thờ nam California , USA
* Đức cha Giuse Nguyễn chí Linh giáo phận Thanh Hóa rửa chân cho 12 tông đồ 5/4/2012 tại Nhà Thờ Chánh Tòa Thanh Hóa
* Cha nguyên Giám tỉnh Donbosco rửa chân cho cac em thiếu nhi . GX Thái Bình
* Bà Park Geun-hye khi còn là ứng cử viên Tổng thống Hàn quốc và các quan chức trong đảng tham dự lễ rửa chân thể
hiện cho tinh thần phục vụ nhân dân vào tháng 4/10/2012 tại Ulsan . Bà đã rửa chân cho một phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc .
* Rửa chân cho Mẹ nhằm giúp học sinh biết quý trọng hơn tình cảm giữa cha mẹ và con cái , cũng như biết cách bày tỏ lòng cảm ơn với cha mẹ mình .
* Rửa chân cho vợ để thể hiện tình yêu thương tại Hàn Quốc
* Tù nhân rửa chân cho gia đình xin được tha thứ ở trại Gia lăng , Tứ xuyên , tây nam Trung Quốc .
Nghi lễ này rất cảm động . Nó giúp họ nhận ra không bao giờ quá trễ để bắt đầu làm lại cuộc đời , và mọi người đều xứng đáng được tha thứ để có cơ hội thứ hai sống trong cuộc đời này .
Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013
NHỮNG BẬC TRƯỞNG THƯỢNG HÙNG DŨNG ĐÀ NẴNG
KÝ
ỨC
NHỮNG
BẬC TRƯỞNG THƯỢNG
HÙNG
DŨNG ĐÀ NẴNG
Lm
Giuse NGUYỄN TRUNG THÀNH
1- CHA PHANXICO XAVIE NGUYỄN
XUÂN VĂN
Niên khóa 1966-1967 , tôi đi “ giúp xứ “ năm thứ hai ở Phước Thành , Hòa
Khánh . Nghe Cha Nguyễn Xuân Văn , cha sở Phước Thành , kể lại : sau đại lụt “
năm thìn , 1964 “ , cha con phải bỏ nhà cửa , ruộng vườn ra tạm trú ở đồi Hòa Cầm
, rồi định cư ở Hòa Khánh . Vì vất vả lập nghiệp , nên cha bị bệnh đau
dạ dầy . Ngài xin Đức Cha Phê rô Phạm Ngọc Chi
cho thầy đến giúp xứ . Các thầy
khác đã được các cha xin, chỉ còn hai anh em chúng tôi là tôi và cha Hạnh chưa
có cha nào xin . Ngài xin cả hai . Ngài về kể lại cho Đức Cha Sách , cha sở Phước
Quang . Đức Cha xin ngài nhường cho một
thầy . Ngài nhường cho Đức Cha muốn chọn thầy nào thì chọn . Đức Cha bảo ngài có công xin thì chọn trước
, thừa mới đến ngài .Thât ra cả cha Hạnh và tôi đều là “ người thừa “ . Cả hai
người cha Văn đều không quen biết , vì chúng tôi quê mãi miền Nam, nhập tịch Đà
Nẵng . Cha Văn biết cha Thuận , cha quan thày của tôi , ngài nhận tôi . Nhờ “cái
danh “ của cha bố , tuy là thừa, nhưng tôi chỉ “ thừa “ một lần , lần thứ hai
thì cũng vinh dự được “ chọn “ ; chứ không
như cha Hạnh bị “ thừa “ cả hai lần .
Nhờ năm giúp xứ lần đầu ở Đông Mỹ, Phú
Yên năm 1963-1964, tôi đã quen sinh hoạt thiếu nhi , nên về Phước Thành thiếu
nhi Phước Thành có “máu” hơn các xứ khác
. Nói là “ quen “ cho oai, chứ có quen gì đâu . Sau khi ông Ngô Đình Diệm bị lật
đổ, cha xứ và các thầy bỏ về Sài gòn , chỉ còn cha phó và tôi . Đã hai đêm “ ai
đó “đem súng vào bắn từng phòng , may mà đã trốn vào phòng mặc áo , nên không chết . Thêm vào đó giáo dân sợ hãi
đã bỏ đạo gần như một nửa . Buồn và chán lắm . Mình đã buồn chả nhẽ lại làm cho
bổn đạo chán ? Nên lập đoàn thiếu nhi
cho hết buồn , hết chán . Nhờ những giờ sinh hoạt trước giờ đọc kinh chiều, giáo
xứ quên nỗi “ buồn “ , và thêm hứng khởi .
Cha Văn muốn thiếu nhi có “ danh “ , có “ bảng hiệu “ cho oai . Ngài
bảo tôi liên lạc với cha Bùi Hữu Ngạn lập Hùng Dũng . Phương tiện đi lại hạn hẹp, xe đạp cũng không có . Có lần
đi tĩnh tâm , tôi và cha Hạnh đi bộ từ Hòa Khánh xuống Đà Nẵng , Đến An Hòa gặp
cha Ngạn . Cha Ngạn đưa cho mấy cuốn sách về đọc . Đọc cũng chẳng hiểu , may nhờ
có cha Hạnh ở bên Phước Quang chỉ bảo .
2- CÁC CHA SỞ QUẢNG NAM
Lúc đó giáo phận Đà Nẵng cũng có Hiệp Hội
Thánh Mẫu . Họ sinh hoạt rất “ le lói “ , nhất lại là con cái của cha Vinh sơn Đinh
Duy Trinh , Giám đốc Công Giáo Tiến Hành
giáo phận . Vậy mà không hiểu sao hầu hết các cha sở của các xứ đạo quảng
Nam đều thích lập Hùng Tâm Dũng Chí . Phải chăng HTDC đã có thời các cha , từ
thờ Pháp ? HTDC tuy ngoại lai, từ Pháp nhập cảng vào , nhưng nhập đã lâu, nên đã
trở thành “ hàng nội “ , không còn “ hàng
ngoại “ nữa . Do đó tất cả các xứ hạt “ Tam Kỳ “ , hạt Hội An và hạt An Ngãi đều thành lập Hùng Tâm Dũng Chí
, thậm chí có nhiều xứ đạo di cư năm 54
cũng lập HTDC . Các cha đã trở “về nguồn” , về “ tắm ao ta “ , về mua “ hàng nội “.
Xin kể các xứ đã lập HTDC : An Hòa năm
1962 , Trà kiệu 1964 , Hội An 1964 , An Ngãi 1964 , Hòa Cường 1964 , Thanh Đức 1964
, Phú lộc 1964 , Phú Thượng 1964 , Tam kỳ 1964 , Nội Hà 1965 , Cồn Dầu 1965 , Tín
Đức 1965 , Nhượng Nghĩa 1965 , Phước Thành 1965 , Phước Quang 1966, Phước Nghĩa
1966, Phước Tân 1966 , Vĩnh Điện 1967, Ái Nghĩa 1967 , Gia Phước 1968 , Chu Lai
1967 , Phước Hà 1968 , Phước Xuân 1968 , Hòa Thuận 1968 , Hòa Cường 1968 , Ngọc
Quang 1968 , Chánh Tòa 1972 , Hoa Lam 1972 , Cẩm Hòa 1972 ……
3- CHA AN TÔN TRẦN VĂN TRƯỜNG
Năm 1971 vì cứng đầu cứng cổ , tôi bị
phạt đi “ giúp xứ “ năm thứ tư và thứ năm , . Tôi được cha Trần Quang Châu đưa
về Nhà Thờ Chánh Tòa . Cha Châu bảo tôi :
“ Cha
bề trên Nguyễn Quang Xuyên rất muốn lập
HTDC tại Nhà Thờ Chánh Tòa . Bác nó không có khả năng , chú mày về giúp bác
“ . Thế là mục đích giúp Chánh Tòa là để lập HTDC .
Cái rủi có cái may . Tôi được gặp ông
chuyên gia HTDC , cha Trần văn Trường , đang
là phó Chánh Tòa . Cha Trần Văn Trường thì ai cũng biết rồi : sâu sắc và dễ thương , làm việc gì cũng “ ngâm cứu “đàng
hoàng .
Trước hết , ngài dẫn một số tình nguyện viên
đi điều tra môi trường sinh sống của thiếu nhi . Ngài vẽ bản đồ với các chấm
xanh đỏ để biết các thiếu nhi ở chỗ nào, hoàn cảnh ra sao . Sau đó , ngài tuyển
lựa các Hữu trách .
Ngài chọn ngày HTDC Chánh Tòa “ Gia Nhập Đại
Đồng “ . Ngày đó chính là ngày
27-12-1972 , ngày lễ thánh Gioan Tông Đồ , bổn mạng Cha Bề trên Nguyễn Quang
Xuyên . Từ đó mỗi chiều chúa nhật các em tới sinh hoạt đầy sân nhà thờ và sân
trường Thánh Tâm của các sơ Phao lô . Nhưng dường như các em ít thích tới sinh
hoạt , mà tới để nghe cha Trường kể chuyện , tập vũ , ra trò chơi …… nhiều hơn
.
4- CHA AN TÔN BÙI HỮU NGẠN
Cha Bùi Hữu Ngạn mở “ Chiến
dịch K.78 “ . Ngài xuất bản tờ “ Tương Lai “ để phục vụ chiến dịch . “Tương Lai “ tên tờ báo , tên tờ báo , do
cha Trườngđặt . Mỗi tuần ra một số , Cha Ngạn , cha Trường là chủ bút . Tôi là
cổ động viên , là “ chú bán báo “ . Báo để phục vụ chiến dịch , nên truyện , thơ
, nhạc …..phải phù hợp với nội dung của chiến dịch . Từ “ chú bán báo “ , cha
Ngạn khuyến khích tôi đi tìm những cộng tác viên …. Mỗi tuần kiếm cho được câu
chuyện , bài thơ , bài nhạc …..
Chúng ta biết cha Bùi Hữu Ngạn . Con người
mảnh khảnh , nhưng ôm nhiều mộng đẹp . Chẳng vậy mà ngài có nhà in, có trại gà
Dân Tiến lớn nhất Miền Trung , có đài phát thanh ……
Ngài là người không ngại bỏ tiền . Kỷ niệm 30 năm Hùng Tâm Dũng Chí , ngài xin cha Phục , dòng Chúa Cứu Thế , đi sang Pháp dự hội nghị . Ở nhà ngài tổ chức Vũ khúc “ Mặt Trời “ biểu diễn tại sân Nhà Thờ Chánh Tòa và in tập sách “ 30 năm Hùng Dũng “ .
Ngài là người không ngại bỏ tiền . Kỷ niệm 30 năm Hùng Tâm Dũng Chí , ngài xin cha Phục , dòng Chúa Cứu Thế , đi sang Pháp dự hội nghị . Ở nhà ngài tổ chức Vũ khúc “ Mặt Trời “ biểu diễn tại sân Nhà Thờ Chánh Tòa và in tập sách “ 30 năm Hùng Dũng “ .
5- ÔNG ĐAMINH TRƯƠNG VĂN THẠNH
Báo ra lò thì phải có người mua . Tôi không
là chú bán báo cho Đà nẵng mà là cho mọi xứ . Xứ gần thì chở báo bằng Honda, xứ
xa phải có xe hơi . Khỏi lo , xe hơi đã có ông Đaminh Trương văn Thạnh , chủ tịch HTDC giáo phận , cung cấp . Xe của ông trở thành xe của Hùng Dũng, xe báo
của Tương Lai . Nhiều khi đi xa , như đi vào bán tận Chu Lai , ông cung cấp cả
thức ăn đi đường …..
Con người ông ít nói, nhưng có nụ cười tươi
, nhất là có tấm lòng yêu thiếu nhi . Đi Mỹ rồi , ông vẫn nhớ . Hằng năm vẫn gửi
quà về .
6- ÔNG TRẦN VĂN MẦU
Hai người giáo dân đem lại sinh khí cho
HTDC Đà Nẵng là ông Thạnh và ông Mầu . Ông Mầu là người len lỏi các ngõ hẻm , các
khu phố , để tìm các hữu trách , các Hùng Dũng . Ông là người hâm nóng tinh thần Hùng Dũng cho
mọi lứa tuổi lớn cũng như nhỏ . Ông không những là người anh , mà có thể như người
cha lo lắng cho sự lớn mạnh của gia đình Hùng Dũng .
Ông Thạnh đã về với cha Courtois và cha
Ngạn , còn ông Mầu đến ngày Chúa gọi chắc cũng được Cha Courtois và cha Ngạn đón
đem vào thiên đàng ?
7- CHA ĐAMINH PHẠM MINH THỦY
Người họa sĩ cho báo Tương Lai là cha Đaminh Thủy , cha phó Chánh Tòa . Cha
cũng ít nói như ông Thạnh , nhưng rất chăm chỉ làm việc . Anh Ân , con ông Trưởng
Ty Thanh Niên , thỉnh thoảng ngoáy cho Tương Lai vài nét vẽ , còn tất cả do mười
ngón tay tài hoa của cha Thủy .
Nay cha ở Sài gòn , nhưng Hùng Dũng vẫn đến
với cha .
8- CHA GIOAN BAOTIXITA ĐÀO DUY KHẢI
Sau khi cha Ngạn qua đời , cha Trường cũng
từ chức Phó Giám Đốc , để nhường cho người trẻ . Các cha đã bầu cha Gioan
Baotixita Đào Duy Khải , tuyên úy HTDC Hội An, làm Giám Đốc .
Mình còn nhớ ; khi ở mái trường Đại Học Văn
Khoa Sài Gòn , nghe tin cha Ngạn qua đời , chính cha Khải lấy xe dzíp (jeep) chở
mình về Đà Nẵng . Dầu không kịp ngày đưa cha ra mộ , nhưng có thể về tổ chức ngày giỗ đầy tháng cho cha .
Trên đường về , đêm đó trăng sáng . Mình nhìn
trăng chưa ngủ . Còn cha Khải đã ngủ . Mình cảm hứng bài ca “Ai Bảo Người Chết ? “
Mình đánh thức cha dậy . Mình hát cho ngài nghe . Ngài bảo mình : “ Bao giờ bác chết , chú mày làm cho bác một
bài nhé ! “ . Bác đã đi xa , thế mà chú chẳng làm cho bác một bài nào
như bác dặn .
Sau năm 75, bác đi học tập . Học tập về ,
bác ở Đồng Tiến . Bị người ta đuổi , bác về ở nhà bà con . Bác không còn cha mẹ,
anh chị em . Bác buồn . Bác đi vượt biên . Không biết bác đã làm mồi cho cá mập
, hay hải tặc Thái Lan đã chôn bác trên bãi cát nào đó .
Thời cha Khải làm Giám đốc , mình làm phó
Trà Kiệu . Có thể nói cha Khải thường xuyên đến chở mình ra cha Hạnh ở An Hòa bàn
về Hùng Dũng . Cha sở Nguyễn Thành Tri đêm một mình buồn và hãi . Nhiều khi ngài
giận , la , không muốn có người đến chở mình đi .
Khi tổ chức trại HD cho cả hạt Hội An , ngài
bảo mình làm một bài hát cho ngày trại . Suốt tháng nặn đầu nặn óc chẳng ra .
Ngày mai trại , chiều nay xuống Hội An , trên xe nặn mãi lại ra bài “ Giã từ Hội An “ . Chị Tuyết , người
hữu trách nhiệt tình của Hội An , an ủi mình : “ Chắc chưa có chè bắp , nên nhạc
chưa ra ? “ Chị đi mua chè bắp . Lạ lùng ăn xong, bài ca “ Hội An Đất Thiêng Máu Hồng “
tự động tuôn ra . Sau năm 1975 gia đình chị vô Sài Gòn . Nhạc sĩ Đỗ Lễ là em của
chị . Nhớ Hùng Dũng thỉnh thoảng chị ra Đà Nẵng thăm . Chẳng ngại đường xa khó
khăn , chị vào cả Lệ Sơn thăm . Chị cũng vượt biên . Chị cũng đồng số phận như
cha Khải , cha tuyên úy của chị .
Viết lại những hình ảnh của “ Các Bậc Trưởng Thượng Hùng Dũng Đà Nẵng “để bớt nhớ , để
noi gương các đấng bậc tiếp tục hy sinh cho Hùng Dũng .
Sài Gòn Mùa Vọng
27 -11-2011
Lm Giuse NGUYỄN TRUNG THÀNH
( Trích
trong Đặc San VƯƠN LÊN –
MỪNG CHÚA GIÁNG SINH 2011
của Liên Đoàn HTDC Thánh Linh
Giáo Phận Đà Nẵng )
Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013
MUỐN GÂY DỰNG MỘT ĐOÀN HÙNG TÂM DŨNG CHÍ (tiếp theo và hết)
ĐOẠN
IV
Giai
đoạn thứ ba
Gây
bầu khí bác ái
CHÚNG
TA THƯƠNG YÊU NHAU NHƯ
CHÚA
GIÊSU ĐÃ THƯƠNG YÊU CHÚNG TA
1-
Bầu
khí phải gây: Bác Ái
Chính chúng
ta,
Chúng ta phải sống theo luật Bác Ái hơn
nữa. Có bao giờ chúng ta sống theo đó đủ không? Không cần nói dài. Bạn đã tin rồi.
Chúng ta còn phải cố gắng để sống theo đó mãi.
Nhưng chúng ta đã biểu lộ đời sống bác ái
ra ngoài đủ chưa?
Bạn nên đọc quyển “Phúc âm toàn bộ trong tất cả đời
sống” của Ch. Thellier de Poncheville (Ed. Spes). Hay lắm, cần phải có để
giúp bạn nghiền ngẫm và hướng dẫn hành động của bạn trong tam cá nguyệt này.
QUAN
TRỌNG CỦA ĐỨC BÁC ÁI.
Quan trọng vì chính Chúa phán: “Đây là điều
luật của Cha : Các con phải yêu thương nhau. Người ta sẽ cứ dấu các con yêu
nhau mà nhận các con là môn đệ của Cha”.
Cha Thellier de Poncheville, một nhà giáo
dục đồng thời cũng là một nhà thần học, sau một cuộc điều tra, đã nhận xét: Cả
trong các nơi giáo dục công giáo. Đức Bác Ái chưa được coi như là trung tâm mọi
sự. Còn xa lắm! Vì Đức Bác Ái đủ tất cả mọi điều chép trong sách luật và Tiên
Tri. Thực hành nguyên nó đã đủ rồi, các nhà giáo dục công giáo chỉ thường lưu tâm
đào tạo nên những đứa trẻ đạo đức hơn là cho chúng ta hấp thụ một tinh thần bác
ái chân chính.
Để phản động lại và tuân theo mệnh lệnh
Phúc âm, phong trào H.T.D.C đặt đức Bác Ái vào một vị trí tối quan trọng trong
việc giáo dục.
Phỏng theo lời Phúc âm, chúng tôi quen nói:
Người ta cứ dấu các trẻ có yêu nhau mà biết đồng bạn đã gia nhập phong trào.
2- Mấy kế hoạch gây bầu khí Bác Ái.
CHÍNH
LÒNG BÁC ÁI CỦA TA.
Tôi không cần nói thêm nửa.
CUỘC
CHƠI.
Chơi là một phương thế đào luyện tuyệt hảo.
Nhưng bạn đừng lầm tưởng rằng, muốn nhờ cuộc chơi đào luyện trẻ em về đức bác Ái,
bạn phải bóp trán nghỉ ra những cuộc chơi rắc rối.
Trong cuộc chơi thường, có cách chơi có
thể lợi dụng, là chơi cách bác ái, biết nghỉ đến người khác hơn là nghĩ đến mình.
THÍ
DỤ:
Bằng lòng nhận vào bên mình một đứa bé vụng về sẽ làm cho bên mình thua. Tưởng
lệ một người bạn không muốn chơi bằng cách nhường cho anh một chân hay nhường cả.
LONG
TRỌNG RƯỚC NHẬN LUẬT BÁC ÁI.
Luật Hùng Tâm Dũng Chí chẳng qua chỉ là
luật mà Chúa đã lối cho những kẻ theo chân Người, Luật đó chúng tôi đã đổi hình
thức luật pháp của nó thành hình thức một câu quả quyết: “Chúng ta thương yêu
nhau như Chúa Giê su đã thương yêu chúng ta”.
Chúng
ta đừng dán điều luật đó trên tường đoàn quán như một tờ quảng cáo, ngay từ hôm
bắt đầu gây bầu khí bác ái, hãy liệu cho trẻ em khám phá ra, rước nhận nó về và
đặt lên chỗ danh dự. Ba việc đó sẽ phân chia làm 3 quảng trong giai đoạn này (nhưng làm như thế không có ý bảo ta không được
sống một cách bác ái trước thời kỳ này đâu).
1.-
TÌM LUẬT
Thí dụ nhân một buổi tổng hội họp, một
bức thư bí mật báo tin rằng: một luật quý hóa nhất của đoàn thể ta đã bị rơi lạc
đâu đấy trong vùng quanh.
Trên các đường lối, đã có vết đường dẫn
trẻ đi tìm. Theo một lệnh đi chỉ thấy những luật không thể nhận được như “Niêu
ai người ấy xách”…” Hoan hô cú tổng” Mày biết tay tao” v.v…
Rồi một chỗ kia đã tìm ra. Luật đó là
luật bác ái. Một bảng rất đẹp. Toàn thể hội lại ngay. Bàn cãi: Luật có tốt đẹp
không? Có nên rước nhận không? Bỏ phiếu, giơ tay… Hoan hô. Rước về. Hát bài Bác
Ái.
2.-
MẤT LUẬT
Để đánh mạnh vào trí tưởng tượng các hướng
dẫn viên tổ chức một cuộc thực bất ngờ. Bản luật treo ở đoàn quán bổng biến mất.
Trong 15 hôm mọi người bàn tán khắp cả xứ về việc xảy ra.
Để tìm luật, đừng ngại dùng những phương
pháp táo bạo và có vẻ hơi hề như quảng cáo ngoài phố: “Chúng tôi có mất”… đăng
báo, đi báo tuần tráng, hỏi thăm từng nhà v.v… Tấc cả mọi người mọi em bé (cả những em không có trong đoàn) đều phải
biết tin và sẽ tự hỏi câu: “Luật gì mà họ quí thế?”
3.-
LẠI TÌM ĐƯỢC LUẬT
Tìm mãi nay lại thấy. Bởi đó, hoan hô, ca
tụng, cám ơn chung cám ơn riêng dân chúng đã cùng với các trẻ em vất vả và mời
hết mọi người đến coi luật đó. (Dịp này
nên xếp nhằm vào lễ gia nhập Đại đồng Công giáo của các đoàn đã được ban chỉ đạo
ban phép).
Tổ chức khéo cuộc săn luật mất này có thể
chiếm một phần thời gian của thời kỳ thứ ba và có thể thành một cuộc chơi lớn
chấn động được hết mọi người và gây được một bầu khí không những ở đoàn quán lại
còn cả ở ngoài nữa. Như thế hợp với tinh thần quần chúng của Phong trào.
BÁO. – Báo bao giờ cũng dành
cho Đức Bác ái một địa vị quan trọng và bao giờ cũng nói đến đức ái. Chúng tôi
không cần nói thêm đã có các vai trong các truyện sẽ giúp chúng tôi ảnh hưởng đến
các em.
TRUYỆN
NÊN KỂ.-
a: Các bậc danh nhân trong bác
ái.
b: Các Thánh.
Thánh Phaolo – Thánh Gioan –
Thánh Vincente đệ Phaolo – Thánh Martino – Thánh Louis – Thánh Veronican – Thánh
Maria Madgalena – Thánh Genovefa – Thánh Thérèsa Hài Đồng – Thánh Christopho cổng
Chúa Hài đồng qua suối – Thánh Anton – Thánh Phanxico đệ Sales – Thánh Bosco –
Thánh Gioan Vianney – Thánh Pio X…
BÀI HÁT.- Dùng những bài hát
khêu gợi đức ái…
BĂNG.-
-
Bất bình (1 tiếng) - hừ (cả)
-
Giận ghét (1 tiếng) - Hừ (cả)
-
Đánh nhau (1 tiếng) - Hừa (cả)
-
(cả) Chúng ta hãy yêu nhau.
NHỮNG
ĐOẠN PHÚC ÂM, NHỮNG NGỤ NGÔN NÊN MUA HAY LỢI DỤNG.
a)
Ngụ ngôn.
Con
bồ câu với con kiến – Con sư tử với con chuột – Con kiến với con ve sầu (phần
cuối thêm tinh thần Phúc âm vào ! các em H.T.D.C nhặt con ve sầu về nuôi.
b)
Phúc âm.
Trẻ
chăn chiên viếng Hang đá - Đức Mẹ đi thăm Bà I-sa-ve. Người Samaritano nhân từ
- Tám mối phúc thật – Lazaro – Làm bánh nên nhiều – Tha tội cho người trộm lành.
c)
Cựu Ước.
Ông
Elia, miếng bánh và cút rượu…
d)
Bi kịch.
MẤY
DIỆU KẾ KHÁC
TIẾNG
CẢNH TỈNH.- Một câu hát, một tiếng kêu, một người hướng
dẫn viên bắt đầu thì hết mọi trẻ đọc hay hát theo để cảnh cáo nhưng em đang lỗi
luật Bác ái mà không biết.
NHỮNG
X.K.- Là những xão kế ranh mãnh mà các trẻ em vui vẻ và tinh
nghịch tổ chức để giúp ích hay để làm bỡ ngỡ những người chung quanh một cách bất
ngờ.
Phương pháp đó rất có hiệu
quả nơi các trẻ vì tâm lý chúng thích vừa làm chơi vừa việc lành hơn là phải vì
nghĩa vụ.
3- Ý tưởng phải tuyên truyền.
Là những viên sống kết thành Mình Mầu Nhiệm
Chúa Giê su chúng ta cùng nhau hợp nhất nơi Chúa Giê su. Với tinh thần Bác ái
ta cùng nhau kiến thiết Đại đồng công giáo.
Ý tưởng đó ta sẽ phô diễn như thế này: Chúa Ki tô đại tướng của chúng ta, Người xuống
thế không những để cứu chuộc chúng ta , mà còn để ban bố một luật mới : luật Bác
ái .
Luật đó , loài người vì quên mình là anh
em với nhau , đã không giữ nữa . Phần ta hãy cố giữ hơn .(hãy vào mặt trận các X.K.)
Xác vinh hiển của Chúa đã về giời hôm lễ
lên giời . Chúng ta là phần Minh Mầu Nhiệm phải cùng nhau sống đời Bác Ái của
Chúa .
Trước khi Chúa Thánh Thần hiện xuống , các
Tông đồ không làm nổi việc gì . Một mình
chúng ta cũng không làm gì nổi hơn . Nhưng nếu Chúa ở với chúng ta, chúng ta làm
nổi những việc đại sự để hợp nhất chúng ta với nhau và hợp nhất chúng ta với Chúa
Giê su .
Luật Bác ái gồm tóm hết mọi luật Thực .
Thực hành một luật đó , đủ rồi .
4- Kế hoạch tuyên truyền
Nhiều kế hoạch nói ở trên có sức tuyên
truyền cũng như có sức gây bầu khí .
MẶT
TRẬN BỠ NGỠ
Ngày xưa , người Công giáo đã khiến những
người chung quanh phải bỡ ngỡ vì Đức Bác ái của họ , người ta nói : “Đấy xem ,
chúng yêu nhau đến thế nào “ .
Chúng ta cũng thế , phải khiến được kẻ
chung quanh bỡ ngỡ vì đức Bác ái của ta .
Vì thế có 2 mặt trận bỡ ngỡ :
1)
Tại gia đình
- (nhất là kỳ tháng 4 ) làm cho cha mẹ phải bỡ ngỡ vì những X. K.
2)
Khắp mọi
nơi, làm người lân cận , nhà buôn, khách hàng , thợ làm ….. phải bõ ngỡ .
CẤM
PHÒNG NHỎ
Dịp lễ Hiện xuống , cấm phòng (dành cho các
phụ trách đội ) .
5- Hoạt động ở ngoài các buổi họp .
Bạn thấy rằng trong thời kỳ này chúng tôi
chú trọng đến những việc hoạt động ở ngoài các buổi hội đến nỗi hình như chúng
tôi lo việc tông đồ hơn là việc huấn luyện cho đoàn đang thành hình . Phải đúng thế . Chúng ta đã làm như thế .
TÌM
LUẬT
Mặt trận bỡ ngỡ này cò thêm .
HỘI
HỌP PHỤ HUYNH
Đầu đề là
“ sự quan trọng của Đức Bác Ái và
việc giáo dục tâm hồn “ .
6- Tổ chức phải thực hiện
SỬA
SOẠN ĐỘI SỞ
Xin công nhận chính thức cho Đoàn .
(Cùng
nhau khảo cứu các câu hỏi để xin công nhận chính thức cho đoàn tờ câu hỏi xin
trước ở Ban Chỉ Đạo Trung Ương )
DỰ
BỊ .
“ Lễ Gia nhập đại đồng Công
giáo “ mừng lễ long trọng gia nhập đại đồng Công giáo . (coi đoạn sau )
DỰ
BỊ CHO KỲ NGHỈ HÈ .
“ Việc gây bầu khí đã tuần tự
tiếp tục trong chín tháng giời . Nay đã tới kỳ nghỉ hè . Kỳ nghỉ hè rất có thể
làm tiêu tan bầu khí chúng ta đã gây dựng , nếu chúng ta không đề phòng .
PHẦN
III
GIA
NHẬP ĐẠI ĐỒNG CÔNG GIÁO
ĐOẠN
I
Để
đi đến chỗ công nhận chính thức
Bạn đã xem gần hết quyển này . Bạn cười
thỏa mãn : “ Biết bao là ý tưởng ! “ vừa chán nản ; “ Gớm phải mất bằng ấy ngày
giờ , trẻ con chúng tôi mới được chính thức gia nhập Phong trào H.T.D.C. , mới được
đeo dấu hiệu “ .
Phải . Mà như thế lại hay ! Vì chỗ quan
trọng không phải là đeo dấu hiệu , là gia nhập Phong trào H.T.D.C. nhưng là các
em dần dần nhích động và cùng nhau tiến bước thành cao trào nhi đồng .
Việc gây bầu khí phải hoàn toàn đã . Rồi cuối
cùng , lúc ấy mới nên nghĩ đến việc xin công nhận chính thức thành lập đoàn và
xin tờ lục vấn .
ĐOẠN
II
Tờ
lục vấn
Xin
tờ đó tại Ban chỉ đạo trung ương .
Bạn đừng thấy nó dài mà đã sợ . Nó là một
dịp cho bạn biết mọi cái cho đâu vào đó tử tế . Và nó sẽ giúp Trung Ương biết lối
chỉ dẫn cho bạn biết tiến bước một cách kết quả . Bạn cứ tin cậy . Bạn sẽ thấy
.
ĐOẠN
III
Dự
bị xa lễ gia nhập đại đồng công giáo
Tờ lục vấn Bạn đã hội các phụ trách khảo
cứu và đã trả lời ; Bạn đã gửi cho ban chỉ đạo địa phận để sau khi tra xét lại
gửi cho ban chỉ đạo trung ương .
Bây giờ Bạn lo dự bị lễ Gia nhập đại đồng Công giáo đi . Lễ đó phải tổ chức thực
cẩn thận , không bao giờ nên để lễ đó xẩy đến một cách bất thần .
Nhưng cẩn thận ! Xin công nhận chưa phải
là công nhận . Nên đừng chỉ định ngày nào
trước , cũng đừng đem tin trước khi Bạn chưa chắc được sự chuẩn y của ban chỉ đạo
. Nhiều khi các Trung ương có thể vì ích
riêng của Bạn giãn ngày đó ra một thời gian khác .
Bạn nên nhớ rằng hoãn lại như thế có
khi dài tới 6 tháng là cần nếu để nghiên cứu về tờ lục vấn và để tìm câu trả lời
cho Bạn .
ĐOẠN
IV
Lễ
gia nhập đại đồng công giáo
Đó là kết quả của bao công cố gắng gây
bầu khí của Bạn và các trẻ em . Tất cả toàn thể sẽ trở nên đoàn Hùng Tâm Dũng
Chí chứ không phải từng em một .
Lễ đó cũng chỉ là một bước đầu đem đến
một công việc còn khuếch trương và xấu
xa hơn nhiều .
Nhưng được công nhận chính thức đã đem
lại cho đoàn của Bạn quyền lợi dùng mọi dấu hiệu , cờ , áo của Phong trào như ý
, không còn phải e lệ gì vì các chúng đã lên đường tiến đến sự hợp nhất với Chúa
Giê su và với hết mọi anh chị em học sinh , thiếu nhi .
Viết theo quyển :
Comment lancer un groupe
Coeurs
Vaillants Ames Vaillante
Imprimatur
Saigon 22-11-1956
P.M . Phạm Ngọc Chi
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)