Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

NHỚ MANG THEO TRÁI TIM

Chúa Nhật XV Thường Niên - C
(Lc 10, 25 - 37)

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Trường sinh bất tử, muốn được hạnh phúc vĩnh viễn, muốn được sống đời đời, đó là mơ ước muôn đời của mọi người. Hôm nay, một thày thông luật nói lên mơ ước đó khi ông hỏi Chúa “làm cách nào để được hưởng sự sống đời đời”.
Để trả lời ông, Chúa Giêsu kể câu chuyện, một câu chuyện bình thường xảy ra hằng ngày: Một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị cướp trấn lột, đánh nhừ tử, dở sống dở chết nằm rên rỉ bên vệ đường. Thày tư tế đi ngang thấy thế tránh qua bên kia đường mà đi. Thày Lêvi cũng thế. Nhưng một người xứ Samaria, một người ngoại đạo, đã chạnh lòng thương, dừng lại băng bó cho nạn nhân. Chưa hết, ông còn chở nạn nhân đến quán trọ. Hơn thế nữa, ông gửi tiền để nhờ chủ quán chăm sóc nạn nhân cho đến khi bình phục.
Qua câu chuyện người xứ Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đời đời.
Đường Giêrikhô tượng trưng cho con đường về Nước Trời. Đó là con đường gập ghềnh khó đi. Đó là con đường nguy hiểm vì có trộm cướp rình rập. Đó là con đường thử thách. Để vượt qua thử thách, vũ khí duy nhất hữu ích là trái tim. Trái tim chiến thắng có những phẩm chất như sau:
Đó phải là một trái tim nhạy bén.
Người xứ Samaria nhân hậu có một trái tim nhạy bén. Dù đang bận việc riêng, dù vó ngựa phi nhanh, ông vẫn nhìn thấy người bị nạn nằm bên vệ đường. Dù tiếng gió vù vù xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người bị nạn. Trong khi đó, thầy Tư Tế và Thầy Lêvi chỉ đi bộ lại không thấy, không nghe. Hay nói đúng hơn, các thầy có nghe, có thấy nhưng trái tim các thầy đóng kín, nên các thầy chẳng động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín vì những cánh cửa lề luật: Sợ đụng chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở thành ô uế không được tới đền thờ dâng lễ vật. Người xứ Samaria không nghe bằng đôi tai, không nhìn bằng đôi mắt, nhưng nghe và nhìn bằng trái tim. Trái tim nhạy bén có đôi tai thính lạ lùng. Có thể nghe rõ tiếng rên rỉ thì thầm tận đáy lòng. Trái tim nhạy bén có đôi mắt sáng lạ lùng. Có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm trong tâm khảm.
Đó phải là một trái tim quan tâm.
Trái tim quan tâm đưa ta đến gần gũi anh em. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ anh em. Các thầy Tư Tế và Lêvi không có trái tim quan tâm nên khi thấy người bị nạn đã tránh sang bên kia đường mà đi. Người xứ Samaria có một trái tim quan tâm nên ông lập tức đến gần nạn nhân. Vì có trái tim quan tâm nên ông có thể làm tất cả để giúp nạn nhân. Vì quan tâm nên ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu, nào là băng vải. Chẳng học nghề thuốc mà ông săn sóc vết thương một cách thành thạo. Chẳng luyện tập mà ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo. Chẳng có kỹ thuật mà ông biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa. Ông đã làm tất cả theo sự hướng dẫn của trái tim. Với trái tim, ông đã làm tất cả với sự chuẩn xác và nhất là với nhiệt tình để cứu nạn nhân.
Đó phải là một trái tim chung thuỷ.
Trái tim chung thuỷ không làm việc nửa vời, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung thuỷ không mỏi mệt buông xuôi, nhưng theo dõi giúp đỡ cho đến tận cùng. Người xứ Samaria bận rộn công việc, nhưng vẫn lo lắng cho nạn nhân đầy đủ, gửi gắm chủ quán tiếp tục thuốc thang. Và khi xong việc ông sẽ trở lại thăm hỏi để tiếp tục săn sóc cho đến khi khỏi hẳn. Ông làm tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn toàn.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy ta hiểu rằng: đường đến sự sống đời đời là con đường mọi người vẫn đang đi. Nhưng chỉ người đi với trái tim mới mong đến đích. Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng khác vì các thầy không mang theo trái tim. Người xứ Samaria đã đi đến nơi vì ông đi đường với trái tim nhân hậu, trái tim rất nhạy bén, rất quan tâm và rất chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã yêu người thân cận như chính mình ông. Với trái tim ấy, ông đã mở đường đi đến sự sống đời đời.
Chúa Giêsu dạy tôi bắt chước người xứ Samaria nhân hậu. Hãy lên đường với trái tim. Hãy lắng nghe với trái tim. Hãy hành động với trái tim. Hãy đi trên đường của trái tim. Hãy để trái tim tham dự vào mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ. Hãy mang theo trái tim theo trên khắp mọi nẻo đường. Con đường đi với trái tim chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Theo ý bạn đâu là những dấu hiệu cho thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?
2- Mỗi khi gặp một người cần giúp đỡ, bạn có hăng hái ra tay giúp ngay hay còn chần chờ, viện lý do để thoái thác?
3- Sau khi nghe dụ ngôn “Người xứ Samaria nhân hậu”, bạn có quyết tâm gì?
4- Mang theo trái tim nghĩa là gì?

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Thứ Năm, 11 tháng 7, 2013

BÀI CA PHONG TRÀO HTDC








(trích từ  " Những bài ca Phong Trào Hùng Tâm Dũng chí "  do Liên đoàn HTDC GP ĐN lưu hành nội bộ vào năm 2010 )






Thứ Tư, 10 tháng 7, 2013

PHÉP TẮC VÔ CÙNG



GIÁO LÝ TÍN LÝ - BÀI 8: PHÉP TẮC VÔ CÙNG

          Lòng tin tưởng trông cậy tuyệt đối vào Chúa, đó là một điều Chúa đòi hỏi trước hết nơi chúng ta. Vì đó là biểu hiện lòng tôn giáo sâu xa nhất, vì am hợp với địa vị và tư thế của Chúa là Chúa tể duy nhất (Is 45, 5-6; Jo 17,3). Và cũng chính vì thế mà điều Chúa mạc khải cho chúng ta trước hết về Chúa, là cho chúng ta thấy Chúa là Đấng có quyền phép, là Đấng toàn năng như thế nào… Vì lòng tin tưởng trông cậy tuyệt đối chỉ có thể đặt vào Đấng có quyền năng thực sự hoàn toàn mà thôi !

1. Mạc khải về Chúa toàn năng

a.      Cựu Ước

        Từ ông tổ của dân Chúa, ông Abraham, Thiên Chúa đã tỏ mình ra như là một Đấng muốn sao được vậy: “Bằng giờ sang năm, Sara vợ ông sẽ có một đứa con trai” (St 18,10).
        Mặc dầu 2 ông bà Abraham lúc đó đã già rồi và vẫn son sẻ (Rm 4,18-22). Ông Abraham đã tin lời Chúa. nhưng để niềm tin đó được thực sự tuyệt đối, Chúa ra lệnh cho Abraham giết đứa con duy nhất đó làm của lễ (St 22,1-19)… Abraham quả thật đã đạt tới niềm tin tuyệt đối vào Đấng có quyền năng để thực hiện lời hứa dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển dù bây giờ theo sự tính toán của loài người là không có thể ! Nếu có phải tuyên xưng Đức Tin, Abraham cũng sẽ nói như ta ngày nay: “tôi tin kính Đức Chúa Trời phép tắc vô cùng !”.
        Nhưng đặc biệt một biến cố đã ghi những nét sâu đậm nhất trong Cựu Ước, để Dân Chúa luôn nhớ Chúa là Đấng Toàn Năng không ai sánh bằng, đó là biến cố Xuất Ai Cập: Chúa cứu cả một dân tộc, dân Chúa chọn, ra khỏi cảnh nô lệ một nước khác.
        Các bút tích ghi lại sự kiện vĩ đại và kỳ diệu đó đã cho thấy rõ dân Chúa đã thuộc bài học kinh nghiệm về Chúa là Chúa toàn năng thế nào: Xh 6,1+6; Dnl 4,34; 5,15; 7,19; 26,8…
       Các tiên tri vì thế đã dễ dàng ca ngợi và nhắc lại cũng như quảng diễn thêm đề tài mà đã được chính Maisen ca hát. Đề tài: Chúa là sức mạnh và sự cứu thoát ta: Xh 15,1-21; Is 12,1-6; 35,1-10; 41,8-20. Các tiên tri đã ca ngợi quyền năng của Chúa qua hình ảnh: “Chúa các cơ binh” (Yahveh Sabaot) (Is 6,3; Gr 5,14; Tv 24,10), và quyền năng của Chúa trên mọi dân tộc (Gr 46,51).
       Mạc khải về “Chúa toàn năng” đã là mạc khải chính yếu của Cựu Ước, và như là một phương diện khác của mạc khải về “Chúa duy nhất”. Vì nếu chỉ mình Chúa là Chúa thật, thì ai hay sự gì có thể cản trở được ý muốn của Chúa ?

b. Tân Ước

        Bước sang Tân Ước chúng ta thấy mạc khải về Toàn Năng của Chúa có một sắc thái khác hẳn: sắc thái đã được báo trước trong cuộc Chúa hiện ra với Tiên Tri Elia qua cơn gió hiu hiu dịu dàng, đi sau bão táp, động đất, lửa cháy bừng bừng… (1 V 19,9-13). Chúa của Tân Ước vẫn là Chúa toàn năng uy quyền :

        vì : “sức mạnh Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà” (Lc 1,35)
        vì : “Thiên sứ là “Gabriel” nghĩa là “sức mạnh” của Chúa”  (Lc 1,26)
        vì : “Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại… đã vung cánh tay ra oai thần lực” (Lc 1,49.51).
         Nhưng sự oai phong toàn năng của Chúa được mặc lấy hình thức hiền lành khiêm nhu trong Chúa Giêsu (Mt 11,29). Chúa Giêsu đã làm những sự lạ lùng (phép lạ) một cách hết sức bình thản khiêm tốn!
         Tuy nhiên nhận định lại cho kỹ, sức mạnh của Thiên Chúa trong Tân Ước đã được mạc khải vượt xa Cựu Ước rất nhiều ! Vì là sức mạnh có sức cải tạo toàn diện loài người và vạn vật trong sức Phục Sinh con người và vũ trụ để tiến tới “Trời Mới Đất Mới” (Rm 8,18-25; Kh 21,1). Nên không lại gì Thánh Phaolô định nghĩa Phúc Âm là “sức mạnh của Thiên Chúa” (Rm 1,16).

2. Niềm tin vào Cha “phép tắc vô cùng”

         Khi chúng ta nói: “tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng”, chúng ta có ý nói lên sự phán đoán của trí khôn, sự chấp thuận của lòng muốn đối với những mạc khải về những kỳ công của Chúa tỏ ra cho chúng ta trong lịch sử.
        Vì Chúa là Đấng quyền phép, toàn năng như thế, nên chúng ta tin vào Chúa tuyệt đối: tin như Abraham (Dt 11,8-19), như Isaia (Is 43,10-12) ! Tin và phó thác như Đức Mẹ Maria : “Này tôi là tôi tá Chúa ! Tôi xin vâng như lời Thiên Sứ Chúa truyền dạy !” (Lc 1,38).
       Và nhất là như Chúa Giêsu : “Xin làm theo ý Cha” (Mt 26,39), “Con xin trao phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

Đề tài trao đổi
Chúng ta tin Chúa quyền phép, vì chúng ta đã thấy Chúa làm được những việc gì ?
Tại sao chúng ta có thể sống phó thác trong tay Chúa ?


Lm Antôn Trần Văn Trường
(nguồn : giaolyductin.net)


Thứ Ba, 9 tháng 7, 2013

LÀ CHA


GIÁO LÝ TÍN LÝ - BÀI 7: LÀ CHA

       Trong bản tuyên xưng Đức Tin : “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha”, hai chữ “Là Cha” đây có ý nghĩa gì ? Diễn tả niềm tin gì ?
       1. Dựa vào các bản cổ và ngắn hơn của kinh Tin Kính các Tông Đồ, chúng ta có thể biết được ý tứ chính của hai chữ “Là Cha”.
       “Là Cha” đây nhất định không thể hiểu theo nghĩa thông thường : Thiên Chúa yêu thương ta như người Cha thương con ! Ý tứ hai chữ đó ở đây sâu xa hơn nhiều : chúng ta tin Đức Chúa Trời “Là Cha” thực sự, chứ không phải chỉ theo nghĩa bóng !
       Vì bản cổ của Kinh Tin Kính : phần thứ nhất dành cho việc tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Ba Ngôi : Cha, Con và Thánh Thần. Đấy cũng là một ý thức quan hệ nhất của Giáo Hội tiên khởi : Giêsu Kitô quả thực là Con Thiên Chúa theo nghĩa thực sự và đầy đủ của chữ “Con”, nghĩa là đồng bản tính với Chúa Cha. Ý niệm về Ba Ngôi Thiên Chúa càng rõ ràng và mạnh mẽ thêm dưới áp lực của các bè rối xoay quanh thân thế Chúa Giêsu. Việc cử hành phụng vụ đã nhanh chóng hưởng thụ công việc ý thức mạnh mẽ này. Thay vì Rửa Tội “nhân danh Chúa Giêsu” (Cv 2,38), từ rất sớm đã được đổi thành Rửa Tội “nhân danh Cha, Con và Thánh Thần” (Mt 28,19).
       Sau phần tuyên xưng Đức Tin về Chúa Ba Ngôi, mới đến phần tuyên xưng Đức Tin về Chúa Kitô và công việc của Ngài.
       Trong bản Kinh Tin Kính các Tông Đồ như ta đọc ngày nay, phần thứ hai nói về Chúa Kitô, đã chen lấn sang phần thứ nhất. Vì thế mà phần tuyên xưng Đức Tin về Chúa Ba Ngôi không còn rõ ràng nữa, vì đoạn nói về Chúa Con quá dài so với đoạn Chúa Cha và Thánh Thần!
       “Là Cha”, chính là khởi đầu cho phần tuyên xưng Đức Tin về Thiên Chúa Ba Ngôi ! Đức Tin đó có thể diễn tả vắn tắt thế này : Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là : Cha, Con, Thánh Thần !
       Nhờ Chúa Giêsu (Ga 1,18), từ lời giảng dạy (Ga 6,45-46; 10,25-38) cho đến cách Ngài cầu nguyện (Ga 17), ăn ở (Ga 4,34 ; 5,17), chúng ta biết được :
       Đấng mà ta vẫn gọi là Thiên Chúa (Ga 8,54), là Đấng Tạo Dựng (Mt 5,45 ; 6,25-34), Đấng ấy là một Vị Cha, vì Ngài có một Con (Ga 5,19-23 ; 20,17) mà Ngài đã sinh ra từ thuở đời đời (Ga 1,1.2.14.18).
       Dựa vào mạc khải trên, do chính Con Chúa nói, chúng ta ngày nay có được niềm tin : Thiên Chúa là Cha, theo đúng nghĩa chữ “Cha”. Niềm tin mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính : “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha”.
       Thiên Chúa là Cha, Cha của Chúa Con đã xuống thế là Chúa Giêsu, nhưng cũng còn là Cha chúng ta, Cha theo một nghĩa khác nhưng là Cha thật. Vì chúng ta đã tiếp nhận Con Một của Ngài xuống thế, nên chúng ta được trở nên Con Thiên Chúa (Ga 1,12 ; 1 Ga 3,1-2).
       2. Quan niệm “Cha – Con thực sự” ở nơi Thiên Chúa quả thực là một mạc khải đặc biệt của Tân Ước. Nhưng cũng như nhiều Tín Điều khác, Tín Điều này đã bắt đầu từ trong Cựu Ước và tiến triển dần theo sư phạm giáo dục của Thiên Chúa.
       Vì quả thực bên cạnh các đạo giáo do trí óc loài người bày vẽ tưởng tượng ra cùng với các vị Thần sinh sống theo kiểu loài người : cũng phối hợp để rồi sinh con đẻ cái, cũng có đời sống tình dục…, một mạc khải vội vàng không chuẩn bị về “Cha–Con Thiên Chúa” có thể đưa đến ngộ nhận ghê gớm ! Vì trí óc con người nặng nề và đầy ẩn khuất về tình dục, đâu có dễ dàng chấp nhận ngay ý niệm “Cha–Con” thuần thiêng, siêu việt, và hoàn hảo ! Ngay ý niệm về Thiên Chúa thuần thiêng, siêu việt, khác hẳn loài người, mà còn phải một thời gian lâu lắc hàng ngàn năm Dân Chúa mới lĩnh hội được !
       Thánh Kinh đã cho thấy công việc chuẩn bị lâu dài kiên nhẫn đầy khôn ngoan của Thiên Chúa để loài người đón nhận mạc khải về “Thiên Chúa Cha–Con” như thế nào.
       Chúng ta có thể ghi nhận 2 cuộc chuẩn bị song song với nhau : cuộc chuẩn bị để ta nhận Thiên Chúa là Cha thực sự vì Ngài sinh ra một Con thực sự ; và cuộc chuẩn bị để ta nhận Thiên Chúa là Cha ta hơn mọi người Cha dưới thế, vì Ngài đã làm cho ta thành con Ngài còn hơn cha mẹ phần xác ta.
       Cả hai cuộc chuẩn bị đều bắt đầu bằng khái niệm “Cha–Con” trần thế (vì cũng dùng một danh từ Cha–Con). Nhưng cuộc chuẩn bị thứ nhất kết thúc bằng mạc khải : “Thiên Chúa là Cha thực sự vì đã sinh ra Chúa Con thực sự” ; còn cuộc chuẩn bị thứ hai kết thúc bằng mạc khải “Thiên Chúa nhận chúng ta là nghĩa tử của Ngài trong Con Một Ngài là Chúa Giêsu”.
       Cuộc chuẩn bị trước bắt đầu bằng việc Thiên Chúa bênh vực săn sóc Israel như Cha thương Con (Xh 4,22). Thiên Chúa như người Cha cứu chuộc Israel (Xh 6,6). Tư tưởng “Thiên Chúa là Cha Israel” được các tiên tri quảng diễn sâu rộng (Is 1,2 ; Hs 11,1-4 ; Gr 3,19-20 ; 31,20) và được thêm giàu ý do việc móc nối với công việc tạo dựng (Is 64,7) và so sánh với tình Cha con thể xác (Is 63,16 ; Tv 27,10 ; 103,13).
       Tư tưởng Thiên Chúa là Cha đã thu hẹp vào Israel (Chúa yêu thương Israel hơn mọi dân tộc khác). Tư tưởng “Cha Thiên Chúa” đó còn tiếp tục thu hẹp với quan niệm Chúa là Cha đặc biệt đối với các vị xét xử dân (Quan Án) (Tv 82,6 ; 58,1) và nhất là đối với các Vua, kể từ Đavít và con cháu Đavit (2 Sm 7,14). Cùng với lời hứa Đấng Cứu Thế sẽ là con cháu Đavít, “Thiên Chúa là Cha” sẽ càng được hiểu một cách đặc biệt đối với “người con cháu Đavít” này, vì Ngài là Đấng Cứu Thế. Các lời tiên tri càng làm cho ý nghĩa này trở nên khắng khít (1 Cr 17,13 ; Tv 89, 27-38; 2,7). Thế là mọi sự đã được chuẩn bị sẵn sàng để chính Con Thiên Chúa xuống thế nói cho ta biết sự thật hoàn toàn, kèm theo ấn tín của Thiên Chúa tức cuộc Phục Sinh vinh hiển (Cv 2,32-36).
        Cuộc chuẩn bị thứ hai bắt đầu từ liên hệ Cha–Con thể xác ; Israel là con cháu Abraham (St 12,2) cùng với nghi lễ gia truyền (Phép Cắt Bì) và lời chúc lành hiệu nghiệm của Cha già trước khi chết (St 27,1…; 49,1…).
        Thế nhưng, liên hệ thể xác dần dần đã bị lu mờ trước liên hệ tinh thần : Abraham là Cha tất cả mọi người tin như Ông (St 12,3) ; Gioan Tẩy Giả nói rõ :
       “Từ hòn đá Chúa có thể tạo nên con cháu Abraham” (Mt 3,9)
        Chúa Giêsu cũng quả quyết không kém (Ga 8,9), Thánh Phaolô còn phân biệt :
        “Israel thật” không phải là Israel theo thể xác (Rm 9,6).
         Một khái niệm về “Cha tinh thần hơn Cha thể xác” đã thành hình, Mạc Khải chỉ cần quả quyết dứt khoát rõ ràng : Thiên Chúa chọn chúng ta làm nghĩa tử trong Con Một Ngài, và để thực hiện Ngài đã ban cho ta Chúa Thánh Thần để giúp tâm hồn ta có những tâm ý của người Con Thiên Chúa (Rm 8,15-16), đang khi chờ đợi về hưởng gia tài của Cha ta trên Trời (Rm 8,17) cùng với Anh Cả chúng ta là Chúa Giêsu (Rm 8,29).
Đề tài trao đổi
Khi chúng ta đọc : “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha”, chúng ta có ý tuyên xưng niềm tin gì ? Bạn hãy dựa vào Thánh Kinh để chứng minh niềm tin đó.


Lm Anton Trần Văn Trường

Thứ Hai, 8 tháng 7, 2013

ĐỨC CHÚA TRỜI


GIÁO LÝ TÍN LÝ - BÀI 6 ĐỨC CHÚA TRỜI

         “Đức Chúa Trời”, “Thiên Chúa” hay “Chúa”, đôi khi “Thượng Đế”, “Đấng Tối Cao”… : đó là những chữ chúng ta thường dùng để gọi Đấng là Chúa Tể tạo dựng muôn loài, Đấng đã tỏ mình ra cho loài người theo như Thánh Kinh.
         Trong lịch sử, lúc Đạo Công Giáo vừa du nhập vào Việt Nam, vấn đề dùng chữ gì để chỉ Đấng Đạo Công Giáo thờ, đã là một vấn đề rất gay go !
         Các vị Thừa Sai người ngoại quốc, không phải là không biết đến chữ “Chúa”, “Thiên Chúa” hay “Thượng Đế”…! Nhưng vấn đề là làm sao để đừng lẫn lộn Thiên Chúa của Đức Tin Công Giáo, với Thiên Chúa của đạo Khổng chẳng hạn ! Vì nếu lẫn lộn, thì làm sao có thể có vấn đề trở lại Đạo Công Giáo được ?! Vì cả hai bên đều tin có Thiên Chúa, có Ông Trời mà ! Dân Việt đâu có phải là dân vô thần !
         Cho tới ngày nay, còn hiếm gì người lẫn lộn Chúa nọ Chúa kia, và vì thế không thể hiểu được tại sao Đạo Công Giáo bắt người ngoài trở lại Đạo ?
        Cái mới mẻ của Đạo Công Giáo phải làm sao diễn tả được ngay trong danh xưng của Vị Thần của mình, và đừng gây lẫm lẫn ! Đó là mối bận tâm của các Tông Đồ Phúc Âm.
       Lúc đầu, khuynh hướng của đa số Thừa Sai, là chấp nhận danh từ được phiên âm chữ “Deus” tiếng Latinh để lập thành một chữ hoàn toàn mới, đó là “Chúa Dêu”. Như ta còn thấy trong các kinh cổ thời đầu của Giáo Hội Việt Nam. Ngày nay, Đạo Công Giáo đã quá rõ ràng đối với người Việt Nam nên chữ “Chúa”, “Thiên Chúa”… có một nội dung, một ý tứ khác với chữ “Ông trời” “Trời” của các tôn giáo khác. Chính vì thế, vấn đề danh từ không còn quan hệ như lúc đầu nữa.
        Thực sự, vấn đề danh xưng Thiên Chúa không phải là vấn đề riêng gì ở Việt Nam. Ngay trong chính Thánh Kinh cũng đã có vấn đề đó.
        Vấn đề Tên Chúa trong Thánh Kinh :
        Như chúng ta biết, Thánh Kinh chính là lịch sử Đạo Độc Thần, Đạo thật ! Đạo đó phải được tách biệt ra khỏi các thứ đạo khác, như vàng thật đối với vàng giả. Vàng đối với những thứ rõ ràng không phải là vàng, như đất, đá, sắt, chì… thì rất dễ phân biệt và chẳng ai lầm lẫn. Nhưng vàng thật với vàng giả, đạo thật với đạo không thật, Chúa thật với Chúa giả, phân biệt cho được và dùng danh từ cho đúng để tránh được sự lầm lẫn, đấy  là vấn đề.
        Vị Chúa thật đã chọn Abraham ra khỏi quê quán dân tộc của ông, để bắt đầu từ ông gây dựng một Đạo thật, tôn thờ Chúa thật, Vị Chúa đó đã không có một danh xưng nào ngoài danh xưng: “Chúa của Abraham, Isaac và Giacop” hay “Chúa của tổ phụ các người” (Xh 3,6; Mt 22,32 ; Cv 3,13).
Đối với Maisen, người có trách nhiệm thiết lập dứt khoát Do Thái giáo như là một Đạo duy nhất thật, vì tôn thờ một Vị Chúa duy nhất thật (Xh 19,5 ; Dnl 6,4; Is 44,6; 45,5-6), Maisen cũng đã bận tâm vấn đề Danh Xưng thực sự của Chúa. Bên bụi gai cháy một cách lạ lùng, Maisen đã cả dám hỏi đích danh Chúa : Thiên Chúa của Cha ông chúng, nhưng chúng hỏi tên Ngài là gì? (Xh 3,13) Và Chúa đã trả lời bằng một kiểu nói mà sau đã trở thành Tên riêng của Chúa (Xh 3,14). Chúa nói : “Ta là Ta”, “Ta là Đấng Ta đang là” (nguyên văn Do Thái là : “Ehyéh asher éhyéh”) ; và vì động từ dùng trong câu đó có hai nghĩa : “là” hay “có”, nên có thể dịch : “Ta là đấng có” ; khuynh hướng triết học dịch là : “Ta là Đấng vốn có, bản tính là có”, vì thế có thể dịch “Ta là Đấng Tự Hữu” ; nhưng theo ý nghĩa Thánh Kinh : “Ta là Đấng có” phải hiểu là : “Ta là Đấng có thật” chứ không như các “hư thần” không có thật, chỉ là đá, gỗ do tay loài người làm ra…(Gr 2,27 ; 10,1-6 ; Is 40,19-20…).
         Chữ “Giavê” (Yahveh, hay “YHVH”) là động từ “là” hay “có” ở câu trên, nhưng phiên sang ngôi thứ ba, và có nghĩa : “Đấng là”, “Đấng có”.
        Như thế, Danh Xưng mà Maisen đã hỏi Chúa và Chúa đã trả lời, Danh Xưng đó có thể hiểu theo hai nghĩa:
        Nghĩa thứ nhất, Chúa không có Danh Xưng : vì cách trả lời : “Ta là Ta”, tức là từ chối không nói tên của mình ra.
       Lý do Chúa không nói tên Chúa có thể vì Chúa không muốn để Dân Chúa xử dụng tên Chúa, theo kiểu nhiều thổ dân ở miền đó, để bắt chẹt Chúa. Nhưng cũng là vì lý do đơn sơ là Chúa không có tên ! Không có tên, vì Ngài là Đấng duy nhất có, ngoài Ngài tất cả đều hư vô (Is 45,6 ; Ga 1,3). Như vậy, “Ta là Ta” có nghĩa : Có ai như Ta đâu ! Ta có thể tự diễn tả bằng gì được, ngoài ra bằng chính Ta !… Qua kiểu nói đó chúng ta có thể ý thức được tính cách siêu việt tuyệt đối của Vị Chúa thật.
Nghĩa thứ hai và theo khuynh hướng Triết Học, Chúa có thể có một tên, đó là “Đấng Tự Hữu” (như nhiều khi ngày nay chúng ta dùng). Nhưng tên đó diễn tả đặc tính của Chúa hơn là tên thật. Theo khuynh hướng Thánh Kinh, như đã nói ở trên, Chúa quả quyết : Ngài là Chúa có thật, Chúa thực sự, chứ không phải hư thần !
         Tóm lại, dựa vào Thánh Kinh, ta thấy vấn đề tên Chúa vẫn còn y nguyên. Tuy nhiên, điều đó vẫn không cản trở Dân Do Thái coi chữ “YAHVEH” (YHVH) là “Bốn chữ” cực thánh, đến nỗi không dám đọc đúng, mà phải đọc trại là : “Giêhôvah” ! Nhưng đồng thời cũng không cản trở các Thánh Ký sau khi đi đày về ; đặc biệt là một hai thế kỷ trước Chúa Giêsu, đã bỏ chữ “Chúa Giavê” có vẻ quá riêng tư cho Dân Do Thái, để dùng những chữ khác có thể diễn tả được ý tưởng phổ quát cho mọi dân tộc : vì Chúa thật là Chúa muôn dân chứ đâu có phải chỉ là Chúa dân Do Thái, mặc dù Ngài đã trao cho dân Do Thái một sứ mệnh đặc biệt !
         Đấy cũng là lý do để Tân Ước (ví dụ : Kinh Lạy Cha), và Giáo Hội ngày nay không nhất thiết phải dùng chữ “Yahveh” để chỉ Chúa thật, Chúa của Đạo Công Giáo. Tuy nhiên với ý thức dần dần sau cuộc Phục Sinh lên Trời của Chúa Giêsu, và việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội Công Giáo đã có được một Tên đặc biệt nhất không thể lầm lẫn với bất cứ Chúa nào : Đó là “Cha, Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Sau này Thần Học gọi chung một danh từ : “Chúa Ba Ngôi”.
        Kết luận, các Danh Xưng trong ngôn ngữ các Dân Tộc ngày nay, cũng như Danh Xưng đặc biệt nhất trong Thánh Kinh, “Chúa Giavê”, cũng đều có tính cách tương đối : đó không phải là Tên Chúa theo nghĩa thông thường về tên gọi, nhưng chỉ là những danh từ loài người ước định với nhau dùng để chỉ Vị Chúa thật thôi.
       Điều đó vẫn không cản trở việc ta phải tuân giữ Giới Răn II : Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ ! Vì danh từ nào cũng vẫn chỉ là một tiếng kêu ước định của loài người ; nhưng nếu là tiếng kêu chúng ta đã ấn định dành cho Chúa thật, thì ta phải kính trọng tiếng kêu đó, cũng như ta kính trọng chính Chúa.
       Trái lại, với tên “Giêsu”, thì sự thể lại khác : đó là tên Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Thiên Thần đã nói rõ ràng cho Thánh Giuse : phải đặt tên đó cho Con trẻ (Mt 1,21). Tên đó có sức cứu thoát mọi người (Cv 4,12) nên người Kitô hữu được rửa tội nhân danh Giêsu (Cv 2,38).
Điều nhận định sau hết, và cũng là trở lại vấn đề tên “Đức Chúa Trời”, hay chữ nho “Thiên Chúa” rất am hợp với kiểu diễn tả của Phúc Âm : “Đấng ngự trên Trời” (Mt 5,16.48 ; 6,9).

     Đề tài trao đổi
    Chúa của chúng ta có tên và không có tên như thế nào ? Bạn hãy trình bày rõ ràng như bạn hiểu.


Lm. An tôn Trần văn Trường 
(nguồn : giaolyductin.net)