D.-
TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN.
Đối với nhiều chiến sĩ, bản văn về tông đồ giáo dân có vẻ
hơi rụt rè và hạn chế, phải công nhận như thế…
Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên, cũng phải công nhận như
thế, một Công đồng định nghĩa sức mạnh của người giáo dân trong Giáo hội và
trong thế giới. Trước câu định nghĩa đó, chắc hẳn nhiều giáo dân đã làm việc
trong Giáo hội, nhưng bậc giáo dân với tư cách ấy chưa được công nhận phổ quát.
Bản văn định nghĩa sự hiện hữu đó cần được liên kết với sắc
lệnh về Giáo hội, dân Chúa chúng ta đang có mặt đây, như chúng ta đã bàn, câu định
nghĩa giáo lý về địa vị đó của giáo dân. Ở đây chỉ cần xác định thêm vai trò và
sứ mệnh.
1)
PHẢI NGHỈ SAO VỀ THIÊN CHỨC TÔNG ĐỒ VÀ MỤC ĐÍCH
NÓ ĐEO ĐUỔI?
a) Bản chất thiên chức kitô hữu theo lời
Công đồng là thiên chức làm tông đồ. Trong một thân thể, không một
phần nào có thể thụ động. Nó phải làm việc cho thân thể nảy nở, chẳng vậy nó vô
dụng.
b) Trong Giáo hội có nhiều chức vụ nhưng sứ
mệnh chỉ có một : như chúng ta đã nhắc, giáo dân được tham dự
chức vụ tư tế, tiên tri và hoàng tộc của Đức Kitô, đảm nhận một chức vụ riêng
và thiết yếu trong Giáo hội. Để xác nhận chức vụ đó, có thể nói được rằng làm
việc cho công cuộc rao truyền Phúc âm và thánh hóa những người trong môi trường
họ sống, đem tinh thần Phúc âm vào trật tự đời này và những cơ cấu của trật tự đó:
sản nghiệp của sự sống và của gia đình, văn hóa, những thực thể kinh tế, nghề
nghiệp và cả những cộng đồng chính trị. Tất cả đều có một giá trị bởi Chúa mà đến,
nhưng tất cả đã bị tội lỗi và sai lầm làm dơ bẩn. Giáo hội muốn giúp loài người
kiến tạo đúng đắn trật tự thế trần, để hướng người ta và nhân loại về với Chúa.
Giáo hội muốn làm việc này bằng chính những người sống trong trật tự thế trần đó.
c) Sau cùng, sống giữa đời, giáo dân làm việc
khác nào men trong bát, nhưng cũng phải xác nhận rằng họ chỉ có
thể làm tròn nhiệm vụ đó nếu họ không tách rời sự kết hợp với Đức Kitô và cuộc
sống của họ và làm tròn phận sự theo ý Chúa.
2)
NGƯỜI GIÁO DÂN HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ Ở ĐÂU ?
Trường
hoạt động bao la và khác nhau. Công đồng nói đến những khu vực chính :
a) Những cộng đồng giáo hội, đó là giáo xứ nơi
liên kết với các linh mục của họ, giáo dân có thể nhất thống lại những cái khác
nhau của con người, bằng phụng vụ, giáo lý, công cuộc tông đồ và truyền giáo, cả
việc quản trị tài sản Giáo hội… và địa
phận mà giáo xứ là một tế bào, để cùng với hàng giáo sĩ đảm nhận mục vụ
chung.
b) Rồi tất cả khu vực gia đình như
là cung thánh của Giáo hội tại gia. Gương sáng và hoạt động của các phần tử Giáo
hội quan hệ để minh chứng sự thánh thiện và bền chặt của hôn nhân, để xác nhận
quyền lợi cha mẹ trong việc giáo dục, để trong đời sống các quốc gia phải đếm xỉa
đến những đòi hỏi của gia đình, về nhà ở, việc giáo dục con cái, điều kiện làm
việc, sự an ninh, và đôi khi, việc di trú.
c) Khu vực thứ ba: môi trường xã hội. Bằng
chứng tích và hành động, giáo dân phải gắng công lấy tinh thần kitô giáo thấm
nhuần tâm trạng, phong tục, luật pháp và cơ cấu các cộng đồng xã hội. Họ phải
giúp đỡ anh em ở những nơi làm việc, chức nghiệp, học hành, nhà ở, giải trí, tập
thể địa phương… Làm tất cả với ý muốn, qua chứng tích và hành động đó, rao giảng
Đức Kitô, vì nhiều người chỉ có thể nhận biết Ngài nhờ những giáo dân ở bên họ.
d) Khu vực thứ bốn : khu vực quốc gia và quốc
tế.
Được vững vàng trong đức tin và học thuyết Ki tô giáo, ước mong rằng những giáo
dân tham gia điều hành các công việc, các tổ chức quốc tế, để hoạt động cho công
ích, để cải tiến các chế độ nhân văn theo Phúc âm để mở đường cho Phúc âm.
Ở đây
có chỗ dành riêng cho giới trẻ. Hoàn cảnh đã biến đổi cuộc sống của giới trẻ, sự
quan yếu của họ trong xã hội dành cho họ một chỗ đứng càng ngày càng lớn, sự hăng
say tự nhiên thúc đẩy họ tiến đến các hoạt động và trách nhiệm, họ muốn là những
người đảm nhận sinh hoạt xã hội và văn hóa. Cộng đồng nói rằng họ phải làm
trong tinh thần Đức Kitô, trong sự vâng phục và yêu mến Giáo hội. Và chúng ta đi
đến hai kết luận quan trọng :
_
“Giới trẻ phải trở nên những tông đồ đầu tiên của giới trẻ, thực thi việc tông
đồ bởi chính họ và ở giữa họ, tùy theo môi trường xã hội họ sống”.
Và kết
luận thứ hai liên hệ đến tuổi thơ:
_ “Các trẻ em cũng có hoạt động tông đồ riêng
của chúng. Tùy khả năng của chúng, chúng là những chứng nhân sống của Đức Ki tô
giữa bạn bè chúng”.
3)
NHỮNG PHƯƠNG THỨC TÔNG ĐỒ NÀO ?
Công
đồng nhắc tới sự phân biệt giữ tông đồ
cá nhân mà người Kitô hữu phải thực
hiện khắp nơi, ở đâu người công giáo càng ít ỏi thưa thớt và tự do của Giáo hội
càng nguy ngập, việc tông đồ ở đó càng cần, và tông đồ có tổ chức phù hợp với yếu kiện đạo giáo làm cho người Kito
hữu thành những phần của một thân thể . Có đủ mọi tổ chức khác nhau : những tổ
chức nhằm theo đuổi mục tiêu tổng quát của Giáo hội…. những tổ chức theo đuổi
những mục tiêu giảng truyền Phúc âm và thánh hóa …. những tổ chức chuyên lo chấn
hưng đạo giữa đời…. những tổ chức từ thiện và bác ái .
Công giáo tiến hành,
theo bản tuyên ngôn, là một phương thức làm tông đồ có tổ chức, với bốn yếu tố
đặc trưng :
- mục tiêu: mục tiêu tông đồ của Giáo hội trong
trách vụ giảng truyền Phúc âm và thánh hóa muôn người để họ có đủ tư cách đem
tinh thần Phúc âm vào các cộng đồng và môi trường .
- hợp tác với hàng giáo phẩm : trong khi hợp lực
với giáo phẩm, người giáo dân lĩnh lấy trách nhiệm về các tổ chức, các công cuộc
tìm tòi và hành động .;
- hoạt động liên kết với nhau như một thân thể
có tổ chức ;
- hoạt động dưới sự chỉ đạo của giáo phẩm, giáo
phẩm cũng có thể nhận thật sự hợp tác đó bằng một ủy nhiệm rõ rệt ;
Với những đặc tính đó, các tổ chức cũng được
kể là công giáo tiến hành dẫu có những cơ cấu
và danh xưng khác nhau tùy nơi và tùy các dân tộc .
4)
HUẤN LUYỆN LÀM TÔNG ĐỒ
Đối
với chúng ta tiết mục này quan hệ, vì nếu trẻ em có khả năng làm tông đồ, thì đồng
thời chúng cũng cần phải tự luyện vào việc
đó .
-
Việc
đào luyện đó phải thực hiện ngay từ khi bắt đầu giáo dục .
Những ai có nhiệm vụ giáo dục Kitô giáo thì cũng phải lĩnh trọng trách đào tạo
tông đồ .
-
Phải
thực hiện trong gia đình : mở lối, nghĩ đến những người khác, tập
luyện sơ khởi làm tông đồ .
-
Phải
thực hiện trong giờ giáo lý, trong các trường, các hội đoàn :
phải khai tâm cho trẻ em về cuộc sống những kẻ khác , về cuộc sống các cộng đồng
đạo và đời .
-
Sau
hết phải theo đuổi mãi, vì việc tông đồ không phải chỉ để thực
thi trong các đoàn hội, mà còn trong cả cuộc sống .
Mấy ai có thể nghĩ rằng qua những văn
kiện khác nhau đó, Công đồng cũng chẳng nói chi lắm đến chỗ đứng của trẻ em . Đúng
thế, nhưng Công đồng không chú trọng đến chúng hơn những kẻ khác, với sự minh xác này là chúng được giáo dục cùng lúc những khám
phá và sống . Hình như phải giải thích các bản văn như thế mới đúng .
Điều quan yếu phải ghi lại nơi đây như
câu kết cho sự suy nghĩ này đó là Giáo hội cũng chính là trẻ em . Không phải chờ
đến lúc trưởng thành, đến tuổi khôn, mà ngay từ giây phút chịu phép rửa tội,
các trẻ em trở nên kitô hữu “trọn vẹn” đối với Giáo hội . Trong chúng, ân sũng
ngự trị, trong chúng Thần linh sống động, hài lòng và hiển hiện trong sự thuần
khiết, quảng đại, thơ ngây của chúng . Trong chúng phép rửa tội đã gieo mầm
Tin, Cậy, Mến cần phải làm cho lớn mạnh để thể hiện bằng những hoạt động cụ thể
của cuộc sống trẻ em của chúng hôm nay,
trong cuộc sống thanh niên, trưởng thành của chúng mai ngày và như thế, chúng
trung kiên với thiện chức làm con Chúa .
II-
MỤC VỤ TUỔI THƠ
A.-
MỤC VỤ TUỔI THƠ LÀ GÌ ?
Một số nào đó sức mạnh giáo huấn của Giáo
hội được vận dụng để giúp đứa trẻ thực hiện thiên chức làm con Chúa của nó . Cần
phải phối trí hết các thành phần đó để việc giáo dục đứa trẻ được tực hiện một
cách thống nhất . Đó là cái gì làm thành Mục vụ Tuổi thơ . Nó :
_ ĐỊNH HƯỚNG CHO NHỮNG AI VỚI
TƯ CÁCH NÀY HAY TƯ CÁCH KHÁC MANG TRÁCH NIỆM VỀ TRẺ EM : các cha mẹ , giảng viên
giáo lý, giáo chức, huấn luyện viên, người hữu trách các phong trào ….. Nó kích
động và nâng đỡ những cuộc tìm tòi và những nỗ lực trong những buổi gặp gỡ giữa
những nhà giáo dục khác nhau đó .
_ MỜI GỌI CÁC THANH NIÊN, NGƯỜI
TRƯỞNG THÀNH và đặc biệt các phong trào
có tổ chức tham gia việc giáo dục các trẻ em, nâng đỡ học khi làm chứng và trợ
lực cho trẻ em và hợp tác với họ để định hướng tương lai cho chúng .
NHIỀU
LỰC LƯỢNG GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI CÓ MỘT VAI TRÒ PHẢI ĐÓNG TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐỨA
TRẺ . Dẫu rằng đấy không phải là những công cuộc có tổ chức hết cả hay không
chu toàn tất cả những cái người ta có quyền mong đợi điều đó không ngăn trở gì
đến công việc hòa hợp của số rất đông bao nhiêu có thể . Nếu không có cái mục vụ
đó thì cũng nên phát động vì mục đích rất lớn của trẻ em :
_ Gia đình : Theo lẽ thường chính trong lòng gia đình mà đứa trẻ nhận
được những yếu tố đầu tiên của việc giáo dục đức tin và cuộc thí nghiệm sống đạo
. Nhờ sự giúp đỡ và chứng tích của cha mẹ, anh chị em nó, đứa trẻ học biết làm
cho đời nó phù hợp với cái mà Thiên Chúa hằng sống nó mới khám phá mong đợi .
_ Cộng đồng Ki tô hữu sở tại mở
rộng dần dần cái tế bào đầu tiên gia đình nó cấu hành . Đối với một số trẻ, đấy
sẽ là việc tiếp xúc đầu tiên với cuộc sống đạo . Cộng đồng cho nó tham dự vào đời
sống phụng vụ và bí tích, và cho nó chứng tích sống của các phần tử làm nên cộng
đồng .
_ Việc dạy đạo nỗ lực đức tin cho đứa trẻ, khiến nó khám phá sứ điệp
gửi đến cho nó như cho bất cứ ai, và những kinh nghiệm rút ra từ đấy cho cuộc đời
nó .
_ Những trường học Ki tô giáo mà nó ngẫu nhiên tham dự, đặc biệt :
+ trường
học ki tô giáo ở đấy, theo ánh sáng đức tin, nó khám phá vũ trụ, những phong phú
của vũ trụ, việc sáng tạo của Thiên chúa được con người tiếp tục;
+ những
cơ quan văn hóa và giải trí Ki tô giáo có thể giúp điều hợp học vấn với Đức Tin
, và sống những thời giờ nhàn rỗi cho ra người Kitô hữu .
_ Những Phong trào thiếu nhi giúp trẻ em thí nghiệm cuộc sống đạo
theo trình độ của chúng với chúng bạn .
Có những Phong trào chú trọng đặc biệt đến việc đào sâu đời sống thiêng liêng,
có những phong trào lại tìm tòi việc giáo dục con người, Kitô hữu hay tông đồ
một cách rộng rãi hơn .
B.-
PHONG TRÀO TRONG MỤC VỤ ĐÓ
Phong
trào chiếm một chỗ rất quan trọng .Việc tông đồ theo nghĩa rộng bao giờ cũng là
một phần trong toàn bộ của Ki tô giáo và còn là thi hành đức bác ái . Bởi thế
không có giáo dục Ki tô giáo thật sự mà thiếu huấn luyện làm tông đồ . Việc huấn
luyện này hết thảy các cơ quan giáo dục phải ban phát, đó là nguyện vọng của Giáo
hội .
_ Gia đình Ki tô giáo có lẽ không hoàn toàn trung thành với sứ mạng của
nó nếu không định hướng, không nâng đỡ việc tông đồ của trẻ em bằng cách đào
luyện chúng về mặt đó trong cái chức vụ gia đình của chúng .
Chúng
ta cũng có thể lý luận như thế về trường
học Ki tô giáo nhưng với những phương thức áp dụng khác .
_ Lớp giáo lý cũng ban phát việc huấn luyện tông đồ đó , nếu không, nó
cũng chẳng giáo dục đức tin thật sự và đến cùng .
Như thế có cần phải nghĩ rằng Phong trào
sẽ can thiệp khi mà những thành phần nào đó khiếm khuyết chăng ?
Chắc
hẳn Phong trào có thể bổ sung trong việc khám phá cuộc sống chiến sĩ cho những
trẻ em thiếu một trong những tài sản quan yếu đó . Nhưng cả với những em khác,
hoàn toàn được ưu đãi, Phong trào đem lại một yếu tố khẩn thiếtđể phân phát cho
trẻ em tất cả những gì cần cho cuộc sống
chiến sĩ , yếu tố chúng không tìm được ở đâu khác như thế, vì tính cách chuyên
biệt của hoạt động chiến sĩ khác nhau và bổ túc cho những sức mạnh tông đồ khác
:
+
Huấn luyện trí và lòng để làm tông đồ phải đi đến hành động . Vì nhiều lý do :
_ một lý do giáo lý : bí tích
làm chúng ta nên giống Chúa Ki tô tư tế, vua và tiên tri, là phép rửa tội . Chính
bí tích này đòi buộc một đời sống tông đồ
và cho chúng ta sức mạnh hoạt động .
Phép
thêm sức đền tăng cường và củng cố những hiệu quả của bí tích rửa tội . Phép thánh
thể nuôi nấng sự sống của Chúa trong chúng ta .
_ một lý do tâm lý : thật khó
trở nên người trưởng thành chiến sĩ nếu ở giai đoạn tuổi thơ đã không khám phá và sống việc tông đồ .
_ một lý do truyền giáo:
nguyện vọng Giáo hội phải có mặt, đem Tin mừng đến khắp nơi, với qui kết này, là
trong thế giới trẻ con, chỉ có trẻ em mới có thể làm tròn vai trò đó thật sự và
cặn kẽ .
+
Phải đi đến một hoạt động có tổ chức nữa : “ Như thế các ki tô
hữu được gọi thi hành việc tông đồ bản thân trong những trạng huống sinh hoạt
khác nhau của họ: nhưng không được quên rằng bản chất con người có xã hội và
Thiên Chúa đã đoái thương tập hợp những ai tin Đức Ki tô thành dân Thiên Chúa
(xem I Phê rô, II, 5-10) và liên kết họ thành một thân thể (xem I Cor. XII,
12). Việc tông đồ có tổ chức rất thích hợp với tư cách con người và ki tô hữu của
các tín đồ : đồng thời nó cũng biểu lộ dấu hiệu hiệp thông và nhất thống của Giáo
hội Đức Ki tô, đấng đã nói : “Nơi nào hai hay ba người họp lại nhân danh Ta, Ta
ở giữa họ” (Mat XVIII,20).
Vì thế, các Ki tô hữu sẽ thực thi việc tông đồ của mình bằng
cách đồng ý với nhau về một mục tiêu. Họ hãy làm tông đồ trong các công đồng
gia đình của họ cũng như trong các xứ đạo và địa phận; họ cũng hãy làm tông đồ
trong những nhóm tự do mà họ sẽ chọn lựa để tập hợp với nhau.
Việc tông đồ có tổ chức cũng rất mực quan trọng, bởi vì một
hành động đại thể thường đòi hỏi như thế trong các cộng đồng Giáo hội cũng như
trong các môi trường khác nhau của cuộc sống tông đồ. Những tổ chức được tạo lập
để làm tông đồ tập thể nâng đỡ các hội viên, đào tạo họ làm tông đồ, chỉ huy và
lãnh đạo việc tông đồ của họ làm sao để có thể hy vọng những thành quả quan trọng
hơn là khi mỗi người hành động riêng rẽ.
Trong hoàn cảnh hiện nay, ở đâu có hoạt động tông đồ giáo
dân, ở đấy tuyệt đối cần thiết phải phát triển việc tông đồ dưới hình thức tập
thể và có tổ chức; thật ra, chỉ có liên kết chặt chẽ các cố gắng mới có thể giúp
đạt được hoàn hảo các mục tiêu tông đồ ngày nay và bảo trì hữu hiệu được các thành
quả. Trong viễn ảnh đó, điều quan trọng đặc biệt là việc tông đồ phải đạt tới các
não trạng tập thể và các giai cấp xã hội của những ai mà việc tông đồ đó chuyên
lo, nếu không, họ thường không thể kháng cự được áp lực của dư luận quần chúng
và các định chế” (Vatican II - Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, số 18).
Đó là những căn bản
vững chắc giúp chúng ta nghĩ rằng trẻ em phải đi đến một việc tông đồ có tổ chức,
những căn bản đem lại nâng đỡ thật sự cho Phong trào của chúng ta, khiến chúng
ta đòi hỏi cho nó một chỗ đứng thượng đẳng trong Mục vụ, trong Giáo hội.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét