LỄ PHỤC SINH Ở QUÊ TÔI
Lễ Phục Sinh ở quê tôi khi xưa là những gì thật đáng nhớ.
Cách nay khoảng hai phần ba thế kỉ, nghĩa là trước vụ đói tháng Ba
năm 1945, khi ấy còn thời Pháp thuộc, tôi đang cắp sách đi học trường làng ngày
hai buổi, ngây thơ và hồn nhiên với lũy tre xanh, với những sinh hoạt bình
thường trong xứ đạo, với những phiên chợ thật đông người, súc vật và hàng hóa
và với những ngày hội của làng, của tổng, của ngôi chùa làng cổ kính thỉnh
thoảng có một cuộc rước linh đình.
Bọn trẻ chúng tôi không biết mùa chay bắt đầu từ ngày nào,
khi cha mẹ, ông bà bữa đó bảo, thứ tư này lễ Tro, thứ sáu này chúng mày phải ăn
chay, kiêng thịt đấy nhé thì cứ thế mà làm.
Cả gia đình ăn chay, từ ông cụ bà cụ 70 cho đến đứa cháu 7, 8
tuổi. Chỉ những đứa bé ba, bốn, năm tuổi hoặc ốm yếu, đang bị bệnh hay người
đàn bà đang phải dùng sữa mẹ nuôi con thì mới được nhưng trừ mà thôi.
Ăn chay dạo đó thế này.
Thay vì sáng ra ăn cơm thì phải nhịn, nhịn mà làm việc thì cũng hơi
khó nên phải cố gắng. Những việc nặng nề như cày, bừa, cuốc đất, gánh đội
v.v...không làm vào những ngày thứ sáu đó mà lựa những việc nhẹ nhàng hơn như
cào cỏ, săn sóc vườn tược, phát bụi tre, sửa chuồng gà, chuồng lợn... để có thể
làm được với cái bụng trống không từ buổi sáng đã quen ăn trước khi ra đồng.
Mười hai giờ trưa, khi chuông nhà thờ đổ một hồi dài, cả nhà quây
quần ăn bữa cơm chính trong ngày, được ăn no.
Vùng quê tôi, bữa trưa này người ta thường nấu canh khoai, một loại
môn, có loại hơi ngứa nên cũng gọi là khoai ngứa, có loại không. Khoai nấu với
cá hoặc tôm, tép và mắm tôm, mắm tép. Nồi cơm và nồi canh khoai ngứa đều to để
cả nhà, thường cả chục người, ăn cho đủ no. Thức ăn mặn thì tùy theo cái gì có
hoặc đi mua: cá rô, cá diếc kho, tôm tép kho...miễn không phải là thịt và một
đĩa giưa cải bẹ nén chua hoặc cà nén...
Nếu không nấu canh khoai, mẹ tôi nấu một nồi canh chua, có cá lác,
bắp cải, cà chua, lá me đất cho chua, rau ngổ. Cá lác chỉ nhỏ bằng ngón tay
trỏ, chỉ có một cái xương sống, thịt nhiều và thơm. Thứ canh này nấu với cá lác
rất hợp. Mùa này đã nhiều nhót, mẹ tôi còn cho thêm vào nồi canh dăm quả nhót,
cho chất chua rất ngon.
Nhót khi chín mầu đỏ như cà chua, hình bầu dục, nhỏ như trái trứng
gà con so; khi ăn phải cạ nó vào tay áo hay khăn mặt khô cho những cái lấm tấm
trên vỏ bung ra, xong mới ăn. Mấy người đàn bà có thai thích ăn trái nhót vì nó
chua chua giốt giốt rất ngon. Cây nhót nhỏ như cây hoa nhài, cành mềm la đà
trên mặt đất, rất sai trái.
Ăn xong bữa trưa, nghỉ ngơi vài chục phút rồi lại bắt tay vào làm
cho đến chiều khoảng 5 giờ thì có một bữa nhỏ nữa. Bữa này người lớn được ăn
một bát (chén ăn cơm), trẻ con non một bát với chút rau luộc, giưa nén, tép kho
... Ăn xong là đứng lên mặc dù cái bụng còn đói nguyên. Nước chè tươi, chè khô
được uống thả dàn. Sau đó mặc quần áo đến nhà thờ đọc kinh tối.
Các thứ sáu trong mùa chay đều như thế, thứ tư Lễ Tro cũng ăn chay,
kiêng thịt. Có nhiều người ở Hoa Kỳ hiện nay, ăn chay sướng hơn ăn mặn. Ăn mặn
thì thịt gà khoảng một đô-la một pound. Kiêng thịt, quay ra ăn cua “king crab”
hoặc tôm hùm, khoảng 10 đô/pound, hay cá salmon cũng phải 5-7 đô/pound. Ăn như
thế, theo tôi, có lẽ không nên gọi là ăn chay. Ăn chay bên Phật giáo, người ta
chỉ đậu hũ, tương chao, rau muống luộc. Thời Chúa khi xưa, kiếm mấy con cá thì
dễ mà kiếm miếng thịt bò, thịt gà thì khó nên mới buộc không được ăn thịt vì
thịt cao cấp hơn. Chứ nếu kiêng thịt để ăn tôm hùm, “Alaska king crab” và cá
thu sốt chua ngọt thì ăn thịt gà 7-8 chục cents/pound mà lại đánh xác hơn!
Chúng ta nên để ý điều đó!
Riêng tuần Thánh, mọi sinh hoạt phụng vụ đều khởi sắc rõ rệt.
Chiều thứ năm, chúng tôi đi dự lễ Rửa chân, thường cha xứ chủ sự lễ
này với tông đồ là mười hai vị trùm trưởng cao niên, vị vọng trong giáo xứ. Khi
nào thầy tôi về thăm quê vào dịp Phục sinh, thầy tôi cũng được mời mặc áo tấc
tím, đội khăn xếp chữ nhân, quần chúc bâu trắng, đi giầy Gia định để làm một
ông thánh tông đồ của Chúa khi xưa.
Dạo ấy, nhìn nghi lễ này, bọn trẻ chúng tôi chỉ có ý nghĩ là giáo
hội muốn nhắc lại những gì xưa Chúa Jesus Christ đã làm cho các tông đồ và cộng
đoàn của Ngài. Nhưng sau này, khi lớn lên, đầu óc đã trưởng thành, tôi mới thấy
ý nghĩa đích thực của Lễ Rửa chân.
Cái ý nghĩa sâu xa, theo tôi nghĩ, là Chúa muốn cho ta tập đức
khiêm nhường. Một người cao trọng, quyền năng, thông thái xa vời như Ngài, ngay
với Cộng đoàn và các tông đồ của Ngài, lại quì xuống rửa từng bàn chân lấm láp
của môn đệ mình. Phải có một tấm lòng khiêm nhường thế nào mới làm được điều
đó.
Ngài cũng cho mọi người biết rằng, nếu Ngài có thể rửa chân
cho mọi người thì mọi người cũng nên rửa chân cho nhau, hay là phục vụ nhau như
Ngài đã phục vụ mọi ngưòi. Khi đã rửa chân cho nhau thì “cái ta” kênh kiệu,
kiêu căng, phách lối, làm tàng, kể công, ỷ thế không còn nữa mà tất cả chỉ còn
là thương yêu và bình đẳng bởi mọi hố ngăn cách, chia rẽ, đố kị, ngay cả hận
thù đã được san bằng.
Chính khi con người làm việc rửa chân cho bạn hữu, cho cả những
người xa lạ chưa hề quen biết mà con người thấy một niềm vui vô tả trong lòng
là đã ăn ở khiêm nhu, trọng người khác và yêu thương người khác như người thân
của mình (tôi không dám nói như chính bản thân mình, như Chúa dạy, vì nó cao
quá.)
Ngày nay con người thiên về vị kỉ, thần thánh hóa chính mình và bắt
những người thuộc quyền phải tôn thờ mình, tôn thờ cả những cái ngu dốt và độc
đoán của mình, cả những cái kiêu căng phách lối hợm hĩnh của mình. Mọi người,
kể cả vua chúa, chức quyền đời, đạo, tôi nghĩ, nên học thuộc câu phương ngôn
Pháp:
Cái tôi là cái đáng ghét.
(Le moi est haissable – The self is hateful)
Lễ Rửa chân của Chúa chính là một bài học cho chúng ta và cho
những người đó bởi khiêm nhu là nhân đức rất khó tập thành. Có những người, từ
trong máu đã có bệnh kiêu ngạo, coi người khác như rơm như rác, còn cái gì của
mình đều là ngọc là vàng. Từ đó, chúng ta cũng có thể nói:
Kiêu căng là cái đáng ghét – The arrogance is hateful.
Nhất là những kẻ kiêu căng tầm ruồng không có đức tính gì quí đáng
để cho người ta học hỏi.
Trở lại với lễ Rửa chân, thỉnh thoảng chúng tôi cũng sang tận tòa
Giám mục Bùi Chu dự lễ Rửa chân do chính vị Giám Mục địa phận chủ sự. Từ nhà
tôi đi Bùi cũng khoảng 6 km nhưng lúc đó, ở thôn quê đi đâu cũng cuốc bộ, giầu
cũng như nghèo, nên coi là xa.
Ngày thứ sáu, buổi tối, ở mỗi nhà thờ có ngắm 15 sự thương khó Đức
Chúa Giêsu. Người ta thiết lập một cái bàn cao phủ vải tím, đồng mầu với màn
treo trong nhà thờ. Một bục cao hai, ba bậc để người lên ngắm trèo lên đứng
trên đó, cuốn sách ngắm đã mở sẵn, nhìn vào sách mà đọc, mà ngân nga theo đúng
âm điệu của “ngắm đứng” (cũng gọi là ngắm nhân tài) cho đến hết bài ngắm.
Phía sau cái bàn này là một cụ già hoặc trùm trưởng trong xứ
thạo về ngắm đứng, hễ nghe một âm điệu hay thì điểm một tiếng trống con thưởng
cho người đang ngắm như kiểu trống chầu trong các nhà cô đầu. Người nào có
nhiều tiếng trống thưởng có nghĩa ngắm hay. Khi nghe người ngắm đọc tiếng Amen
nghĩa là bài ngắm đã dứt thì cả trống con, trống cái nổi lên một hồi râm ran
nghe rất vui, bọn trẻ chúng tôi rất phấn khởi. Và phía phụ nữ trong nhà thờ đọc
một kinh Lạy Cha, một kinh Kính mừng (không có Sáng danh) để nhân tài chuẩn bị
bài ngắm kế tiếp.
Bên ngoài nhà thờ không thiếu gì người ngồi, đứng, trò chuyện từng
nhóm. Họ cầm trí ở trong nhà thờ cả tiếng nay phải ra ngoài xả hơi một chút,
nói chuyện nhỏ nhỏ, kiếm nước uống rồi lại vào nghe ngắm tiếp. Đám thanh nam
khá đông, còn đàn bà chỉ những người có con nhỏ, chúng khóc đòi ra chứ không có
bóng dáng các cô gái. Phụ nữ Việt khi xưa vẫn được tiếng là hiền thục, ngoan
ngoãn hầu hết. Không hiểu ngày nay ra sao với trào lưu mới, có còn giữ được nếp
cũ của truyền thống tốt đẹp khi xưa?
Người lớn ăn chay nhưng trẻ con nhỏ nhỏ chúng đâu có chịu ăn chay
ăn vỏ gì. Xung quanh nhà thờ vẫn có những hàng bánh kẹo, như bánh chưng, bánh
dầy giò, xôi, bánh dầy đỗ, bánh rán, kẹo bột, kẹo gừng, kẹo vừng, sâu dâu
v.v...có khi cả phở, mấy bà mẹ muốn con không quấy để suy ngắm bắt buộc phải
mua vài hào cho chúng ăn mới yên.
Đêm thứ sáu, khoảng 10 giờ hay 11 giờ, nghi thức đóng đinh Chúa sau
khi 15 ngắm đã xong. Giáo dân tập họp cả trong nhà thờ, đông kín không còn một
chỗ trống. Vị Linh Mục đọc hoặc nói lại sự tích Chúa bị đóng đinh. Rồi ở đàng
sau bức màn nơi cung thánh, người ta nghe những tiếng búa nện trên đinh như
thiệt. Sau đó sáu, bảy người ăn mặc theo lối La Mã khi xưa, dựng cây thập tự
lên, trên đó Chúa, máu me đầy mình và mạo gai trên đầu, đã bị đóng đinh. Vì xứ
tôi có nhiều nhà gọt tượng gỗ và đúc tượng thạch cao, tượng chịu nạn này to gần
như người thật.
Có những tiếng khóc nhỏ nhỏ ở bên dưới vì thương Chúa chịu khổ hình
vì tội loài ngưòi.
Các khu trong giáo xứ phân chia giờ giấc để luôn luôn trong nhà thờ
lúc nào cũng có một nhóm đọc kinh hoặc suy ngắm những sự thương khó Chúa cho
đến sáng mai.
Ngày thứ bảy là ngày đi hôn chân Chúa. Người lớn, trẻ con rủ nhau
đi từng nhóm đến nhà thờ giáo xứ và các nhà thờ trong vùng đọc kinh và
lên hôn chân Chúa, thường đặt nằm trong cỗ quan tài, để hai chân với tư thế bị
đóng đinh ra cho giáo dân hôn vào ngay chỗ vết đinh, trên đó đã có xức
dầu thơm và nhất là xung quanh Chúa, người ta lấy hoa soan và nả bỏ đầy.
Hoa soan mầu tím nhạt, cùng họ với hoa dạ hương, mùi thơm tuyệt
vời, nhẹ hơn mùi dạ hương, dùng ướp xác Chúa thì không còn thứ hoa nào hợp hơn.
Ngoài hoa soan, người ta cũng còn rang thóc, gọi là nổ (nả), hay bắp rang, bỏ
vào xung quanh Chúa cùng với hoa soan. Trẻ con lên hôn chân Chúa nhiều lần
không biết vì thuơng Chúa thực hay vì những hạt nổ, hạt bắp rang rất hấp
dẫn? Dù sao, phải có trẻ con lễ Phục Sinh mới vui và trẻ con đã
thật vui với những kỉ niệm dễ thương và khó quên đó.
Chiếu thứ bảy, giáo xứ nào cũng rước Thánh giá đi đường kiệu xung
quanh. Sau đó người ta ngắm bảy sự đau đớn của Đức Mẹ.
Tùy nơi, khoảng 8 hoặc 9 giờ, giáo dân tụ họp và nghi thức Phục
Sinh bắt đầu. Ở Bùi Chu, nhà thờ chính tòa, Giám Mục làm phép nước, lửa, cây
nến Phục Sinh, nghi thức thật dài. Sau đó là Chúa sống lại, giáo dân hân hoan
kiệu Chúa Phục Sinh xung quanh nhà thờ. Ngày Chủ nhật Phục Sinh, nhà thờ được
trang hoàng bằng cờ hội thánh, hoa tươi thật đẹp và đèn nến sáng choang.
Người giáo dân vùng quê tôi, địa phận Bùi Chu và cả giáo dân ở địa
phận Phát Diệm có thói quen ăn mừng lễ Chúa Sống lại.
Người ta đánh cá dưới ao lên hay đánh đụng một con lợn, giết vài
con gà hay có thể là một con cầy tơ. Bến sông toàn những người mổ cá, mổ chó,
mổ gà, mổ ngan ngỗng. Có thể nhiều ngày tháng đã phải ăn uống đạm bạc nhưng đến
lễ Phục Sinh, năm một lần, sau những ngày chay ép xác, người chủ gia đình muốn
cho vợ con hưởng một chút thịt thà, cá mú, hoa quả ngon lành để cho lên tinh
thần và lấy sức mà làm việc, những công việc đồng áng, nuôi tằm hái dâu nặng
nề, thức khuya dậy sớm hoặc tất tưởi buôn chợ Đông bán chợ Tây, làm hàng xưng
hàng xáo quanh năm.
Thầy tôi chỉ ở nhà được một tuần, tuần Phục Sinh. Trong tuần đó,
ngoài những việc lễ lạy phụng vụ, thầy tôi đi kiếm những người chuyên lo về lấy
và sao chế các vị thuốc Nam như trần bì, sài hồ, hoàng bá...rất nhiều vị khác
tôi chỉ biết mặt nhưng không nhớ tên. Thày tôi mua lại họ để đem ra Hải Phòng
hoặc Hà Nội, gia giảm với các vị thuốc Bắc (của Tàu) khi “cắt” thuốc cho bệnh
nhân. Thầy tôi nói, nhiều vị thuốc Nam hay lắm nhưng người Việt mình không biết
công dụng của nó nên coi thường. Người Tàu bảo: “Người Việt sống trên đống
thuốc mà chết”. Thầy tôi biết cách dùng chúng nên nhiều khi thang thuốc không
tốn tiền nhiều như toàn vị Bắc nhưng lại công hiệu hơn, bệnh nhân mau khỏi hơn.
Thầy tôi đi Hà Nội hôm trước thì hôm sau tôi xách cặp và lọ mực đi
học với nắm cơm mẹ nắm bằng mo cau còn nóng hổi ở trong cặp với vài mảnh cá
khô. Đó là tất cả bữa trưa của tôi trong suốt thời gian học tiểu học. khi nào
đổi bữa thì có mấy con tôm, con tép kho, lâu lâu mới có nhát giò ăn với xôi và
quả cam sành hay quả na (mãng cầu dai) hái từ vườn nhà.
Sau buổi học chiều, khoảng 5 giờ, tôi lại cuốc bộ về. Khi nào trời
nắng ráo thì khá còn mưa gió thì đường lầy lội, có chỗ lỗ lội sâu trên đầu gối,
lọng ngọng té nằm xoài là bùn trát từ đầu đến chân, mất cả sách vở. Ngày nay ở
Hoa Kỳ, nhìn những bữa ăn điểm tâm và những bữa ăn trưa của học sinh tiểu học
và trung học, tôi cảm thấy một nỗi buồn cho người Việt mình: nghèo quá! Cái khó
nó bó cái khôn. Qua bao nhiêu thứ bệnh tật và ba, bốn cuộc chiến tranh, sống
được đến ngày nay là có diễm phúc lắm rồi.
Bữa tối ăn chung với gia đình thật vui, canh, rau đầy đủ để bù lại
bữa trưa của tôi chỉ cốt ăn cho no, cho xong rồi học.
Lễ Phục Sinh 2007
Nhà Văn Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét