Thánh nữ TÊRÊSA AVILA
Lễ kính 15/10
Têrêsa thành Ávila
sinh: 28 tháng 3 năm 1515 - mất: 4 tháng 10 năm 1582) là một nữ tu sĩ Dòng Cát Minh (Dòng Camêlô), một nhà thần học nổi tiếng người Tây Ban Nha của Giáo hội Công giáo Rôma, bà gắn cả đời mình với cuộc sống chiêm niệm và lời cầu nguyện tinh thần.
Điều đáng chú ý ở bà là một nhà cải cách Dòng Cát Minh, người sáng lập ra Tu viện Cát Minh cho các nữ tu. Bà sáng tác những tác phẩm như: Con đường đi đến toàn thiện, Lâu đài nội tâm, Quyển sách của những nền tảng.
Năm 1622, bốn mươi năm sau khi qua đời, bà chính thức được Giáo hoàng Gregory XV phong thánh. Năm 1970, bà được Giáo hoàng Phaolô VI nâng lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh.
(wikipedia.org)
Thánh Nữ Têrêsa Avila. Bà đã thấy Hỏa Ngục, và tả lại rùng rợn như sau:
(Trích chương 32 của tác phẩm Thánh Têrêsa Avila, Tiểu Sử và Tự Thuật.)
.....
"Trong đời tôi, tôi đã chịu những đau đớn dữ dội nhất, chẳng hạn như giây thần kinh co rút trong suốt thời kỳ tôi bị tê bại, mà theo các bác sĩ, đó là những đau đớn tột bực, và còn nhiều thứ đau đớn khác nữa, mà một số do chính ma quỷ gây nên cho tôi, như đã nói. Nhưng tất cả những đau đớn ấy không là gì cả, so với thứ đau đớn tôi cảm thấy trong lúc ở hỏa ngục. Càng không thể nói gì về nỗi kinh hoàng bởi biết rằng những đau đớn ấy sẽ kéo dài vô tận và không bao giờ nguôi ngoai. Dẫu vậy, tất cả những đau đớn này vẫn không là gì so với cơn hấp hối của linh hồn.
Linh hồn như bị bóp nghẹt, khắc khoải, kinh hoàng và sầu khổ vô hạn, một thứ sầu khổ tuyệt vọng và cùng cực không thể diễn tả. Nói rằng nỗi đau đớn ấy giống như linh hồn bị liên lỉ xé rời khỏi xác thì còn quá êm dịu, vì nói như thế có thể có nghĩa là một người nào khác đoạt lấy sự sống của mình; còn trong trường hợp này, chính linh hồn tự xé nát mình ra từng mảnh.".....
THIÊN ĐÀNG ĐỊA NGỤC
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
I.
THIÊN ĐÀNG ĐỊA NGỤC Ư ?
Khi
nói đến Thiên đàng Địa ngục, nhiều người cho là chuyện viển vông, mơ hồ, lãng
mạn… thậm chí có người cho là mê tín dị đoan. Nhưng trong thực tế
vẫn có người tin, có người sống với niềm tin ấy đến nỗi dám hy sinh mạng sống
mình để bảo vệ niềm tin đó, và để chiếm hữu được Thiên đàng.
Rarindra
Prakarsa là một nhiếp ảnh gia người Indénosia đang sống và đang sáng
tác ở Jakarta. Ông có biệt tài sử dụng ánh sáng và mầu sắc tương phản đẹp
đến huyền ảo trong các ảnh nghệ thuật, đặc biệt là ảnh trẻ con chơi đùa.
Trong
số 425 ảnh của ông, có một tấm ảnh miêu tả trẻ con Indénosia đang chơi trò chơi
rồng rắn ở một làng quê. Tấm ảnh này nhắc chúng ta nhớ tới trò chơi
xa xưa của trẻ con Việt nam kèm với lời đồng dao :
Thiên
đàng địa ngục hai quê
Ai
khôn thì về, ai dại thì sa.
Đêm
nằm nhớ Chúa, nhớ Cha
Đọc
kinh cầu nguyện, kẻo sa linh hồn.
Linh
hồn phải giữ linh hồn
Đến
khi mình chết được lên thiên đàng.
Qua
ý nghĩa bài đồng dao này chúng ta đoán được xuất xứ của nó là các
trò chơi xuất phát từ các làng Công giáo.
Câu
thứ hai, có nơi nói khác đi một chút : thay vì “Ai khôn thì về, ai dại thì sa”
lại đọc là “Ai khôn thì lại, ai dại thì qua”. Theo đó thì “Ai khôn thì
lại” : lại là đến, đến thiên đàng. “Ai dại thì qua” : Qua là tới, tới địa ngục.
Thực
ra khôn khéo hay vụng dại tùy vào cách sống. Sống sao cho linh hồn
khỏi sa địa ngục là khôn ngoan. Sống mà linh hồn không được lên Thiên đàng là
khờ dại…
Trong
cuốn “Góp nhặt cát đá” (Shasekishu) truyện 31, thiền sư Muju kể rằng : một
người đến xin thiên sư Hakuin (1686-1768) thiên đàng và địa ngục có thật không.
Sư
hỏi :
-
Anh là ai ?
Đáp
:
-
Tôi là samurai.
Sư
ra giọng mỉa mai :
-
Kiếm sĩ ư ? Trông chẳng khác tên ăn mày.
Tức
giận, kẻ ấy đưa tay sờ vào đốc kiếm. Sư không buông tha :
-
Anh mà đủ gan cắt đầu ta ư ?
Lập
tức kiếm bèn tuốt ra. Sư ngửa cổ, bảo :
-
Đây, hãy mở cửa địa ngục.
Bừng
ngộ, kẻ kia liền tra kiếm vào vỏ, cung kính chắp tay xá . Sư nói
luôn :
-
Cửa Thiên đàng vừa mở.
II.
LỜI DẠY CỦA CHÚA GIÊSU
Chúa
Giêsu nói rất nhiều tới Thiên đàng, nhưng Ngài dùng những từ khác để nói về
Thiên đàng, chỉ có một lần Ngài nói rõ ràng với người trộm lành :”Ngay
hôm nay, con sẽ ở trên Thiên đàng với Ta” (Lc Lc 23,43).
Còn
về địa ngục (hay hỏa ngục) thì Chúa Giêsu nói rất nhiều, ví dụ :”Thà mất một
phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục” (Mt 5,29; 18,9).
Chúng
ta có thể xem tiếp ở (Mt 5,22; 18,28; 25,15; Mc 9,43).
Trong
dụ ngôn người phú hộ và người nghèo Lazarô, Chúa Giêsu nói đến số
phận của hai người đều khác nhau : người nghèo khó Lazarô được đưa vào trong
lòng ông Abraham tức là Thiên đàng, còn người phú hộ kia phải vào âm phủ chịu
cực hình.
Như
vậy, Chúa Giêsu chỉ xác định là có sự hiện hữu của Thiên đàng và hỏa ngục, còn
Ngài không mô tả thiên đàng hỏa ngục như thế nào.
Chúa
Giêsu không mô tả về Thiên đàng, có lẽ như vậy sẽ tốt hơn cho chúng ta để chúng
ta sống trọn vẹn tự do và nhân phẩm của mình. Tuy nhiên, Ngài đã cho biết Ngài
đi để dọn chỗ cho chúng ta. Tại sao ? Vì Chúa muốn chúng ta được ở
bên Chúa, được Chúa chăm sóc và chia sẻ hạnh phúc với Ngài :”Lạy Cha, Con
muốn rằng con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con” (Ga 17,24). Cần
phải có điều kiện nào ? Rất đơn giản :”Đây là điều răn Thầy truyền cho các
con là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17).
Đứng
về huấn quyền của Giáo hội, chúng ta cũng không biết gì thêm. Giáo hội cũng chỉ
cho chúng ta biết những nét tổng quát chứ không có chi tiết cụ thể, đến ngay
thánh Phaolô được đua lên đến tầng trời thứ ba mà cũng không thể
diễn tả bằng lời nói hay chữ viết được (x. 2Cr 13,3).
Chúng
ta chỉ biết mấy nét về Thiên đàng trong sách Giáo lý Công giáo :
“Ai chết trong ân sủng và tình nghĩa với Thiên
Chúa, ai hoàn toàn được thanh luyện sẽ sống muôn đời với Đức Kitô, họ luôn luôn
giống Thiên Chúa, vì họ đã thấy Ngài như Ngài hiện hữu, mặt đối mặt (1Ga 3,2)…
Mầu nhiệm này vượt quá mọi hiểu biết và mọi biểu trưng : sức sống, ánh sáng,
bình an, tiệc cưới, rượu thiên quốc, nhà Cha, Giêrusalem trên trời, thiên đàng
: “Điều mắt chúng ta chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng chưa hướng tới, đó là
nhưng gì Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai yêu mến Ngài” (1Cr 2,7-10)
(GLCG số 1023-1029).
Ngoài
ra chúng ta có thể biết được vài nét về Thiên đàng qua thị kiến của
thánh nữ Faustina được ghi trong nhật ký của thánh nữ :
“Hôm nay ngày 27 tháng 11 năm 1936, tôi được ở trên Thiên đàng cách
thiêng liêng. Tôi thấy những sự đẹp đẽ không thể diễn tả, và những
hạnh phúc đang chờ chúng ta sau khi chết. Tôi thấy các tạo vật đang
dâng lời ca tụng và tôn vinh Chúa không ngừng. Tôi thấy hạnh phúc trong Chúa
lớn lao chừng nào, hạnh phúc lan ra mọi thụ tạo, làm cho họ sung sướng. Rồi tất
cả vinh quang, ca ngợi dâng lên từ hạnh phúc này trở về nguồn là Chúa, nhập vào
chiều sâu của Chúa, chìm vào cuộc sống trong Chúa Ba Ngôi, mà không bao giờ có
ai hiểu hết hoặc đo lường hết được.
Nguồn mạch hạnh phúc này không thay đổi trong bản tính nó, nhưng
lại luôn luôn đổi mới trong cách diễn tả, nó lan tràn ra hạnh phúc cho mọi linh
hồn. Giờ đây tôi hiểu lời thánh Phaolô đã nói :”Mắt chưa hề thấy,
tai chưa hề nghe, lòng chưa cảm thấy những gì Chúa đã dọn sẵn cho kẻ kính mến
Người”.
Chúa
cho tôi hiểu rằng, chỉ có một sự có giá trị vô cùng trong mắt Người, đó là “lòng
yêu mến Chúa” : Yêu, yêu và yêu. Không gì có thể so
sánh với một tác động kính mến Chúa cách tinh ròng (Thánh Faustina,
Nhật ký Tình Thương, số 777).
III.
MUỐN VỀ THIÊN ĐÀNG.
1.
Niềm hy vọng của chúng ta.
Chúng
ta biết rằng Thiên đàng là phần thưởng Chúa dành cho con cái của Ngài sau một
thời gian lưu đầy nơi trần thế, đã làm trọn nhiệm vụ được giao phó một cách tốt
đẹp. Chúng ta dám tin chắc như thế, vì chính Chúa Giêsu đã hứa cho
chúng ta trước khi bước vào cuộc tử nạn :”Lòng các con đừng xao xuyến.
Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở. Nếu
không, Thầy đã nói với các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để
Thầy ở đâu các con cũng ở đó” (Ga 14,1-3).
Nắm
chắc được tư tưởng đó, thánh Phaolô đã nói với các tín hữu Philipphê rằng :”Quê
hương chúng ta ở trên trờ, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ
trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20).
Trần
gian này chỉ là nơi tạm trú, chứ không phải là quê hương. Đã là tạm trú thì chỉ
ở một thời gian vắn và chỉ ở nơi thường trú thời gian lâu dài. Chúng
ta sẽ rời thế gian này để về quê hương thật và vĩnh cửu nơi Cha chúng ta đang ở
đấy. Vì thế, Thiên đàng là của chúng ta, mọi nỗ lực của chúng ta
phải hướng về đó.
Truyện : Thiên đàng là của con.
Một
cô gái bị cám dỗ rất nặng nề về sự tuyệt vọng. Với những tội lỗi của mình, cô
nghĩ rằng cô đã có chỗ trong hỏa ngục đời đời, không còn hy vọng gì được Thiên
Chúa yêu thương và hưởng phúc Thiên đàng nữa. Ngày kia, thánh Philipphê Nêri
đến thăm cô. Sau khi nghe cô thổ lộ tâm hồn, thánh nhân nói :
-
Thật là tai hại, con gái yêu của ta, khi con tin rằng con đã được dành cho lửa
đời đời, Thiên đàng mới là của con.
Cô
gái tội nghiệp nức nở thưa :
-
Cha ơi, con không thể tin được điều ấy.
-
Đó là vì con khờ dại. Cha sẽ chứng minh cho con thấy. Chúa Giêsu đã chết cho ai
?
Cô
gái đáp :
- Cho người tội lỗi.
- Đúng lắm, thế bây giờ con nghĩ con là một vị thánh sao ?
Cô gái vừa khóc vừa trả lời :
- Không, con là một kẻ đầy tội lỗi.
-
Như vậy, chính vì con mà Chúa Giêsu đã chết, và chắc chắn Chúa
chết là để cho con được vào Thiên đàng. Vậy thì Thiên đàng là
của con, bởi con đã gớm ghét tội lỗi, con đừng nghi ngờ chi nữa.
Những
lời của thánh Philipphê Nêri bắt đầu thấm vào tâm hồn cô gái. Và từ lúc ấy, lời
nói “Thiên đàng là của con” đã không ngừng an ủi cô và khiến cô không mất lòng
tin tưởng vào tình thương yêu vô biên của Chúa nữa.
Về
vấn đề này, thánh Anphongsô cũng khuyên nhủ chúng ta là những người tội
lỗi bất xứng :
“Nếu
vì lỗi lầm mà bạn có nhiều lý do để sợ chết bao nhiêu, thì bạn lại càng có hy
vọng được sống muôn đời bấy nhiêu nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu, công nghiệp
ấy có thể cứu bạn mạnh hơn cả ngàn vạn lần tội lỗi làm
cho bạn hư đi. Như thế với lòng tin tưởng, chúng ta hãy chạy đến
ngai tòa ân sủng để được hưởng lòng khoan dung. Ngai tòa ấy chính là
thập giá, nơi Chúa Giêsu ngự như trên một ngai vàng, để ban phát lòng nhân từ
cho bất cứ ai chạy đến với Ngài “ (Thánh Anphongsô).
2.
Nhưng phải có điều kiện.
Việc
Chúa Giêsu về trời đem lại cho chúng ta ánh sáng và hy vọng. Nếu
không được ánh sáng phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu soi sáng, con người
chỉ có thể thấy gần mà không thể thấy xa, chỉ biết chú mục vào cuộc sống phù du
đời này mà lãng quên cuộc sống mai sau, chỉ biết vun quén của cải
vật chất tạm bợ trần gian mà không tích lũy cho kho tàng
vĩnh cửu, chỉ biết kiếm tìm lạc thú chóng qua mà lãng quên hạnh phúc
vĩnh cửu muôn đời… Họ chối bỏ Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế
giới thiêng liêng.
Niềm
thao thức khát khao của chúng ta phải là ngước nhìn lên, nhìn lên quê hương
vĩnh cửu chứ không phải chỉ tìm những cái gì là là mặt đất. Chính thi sĩ R.
Tagore đã nhắc cho chúng ta tư tưởng đó :
Như
đàn hạc hoài hương
Bay
thẳng về tổ ấm
Trên
đỉnh núi vút cao
Nguyện
đời con phiêu diêu
Qua
vùng trời thăm thẳm
Lên
tận chốn Thiên đường.
(Tagore,
Gitanjali, 103)
Nhưng
ao ước là một chuyện và thực hiện được ao ước ấy lại là chuyện
khác. Nói như người dân quê Việt nam :”Muốn ăn hét phải đào
giun” hay : “Muốn ăn khoai phải vác mai đi đào” vì “Không
có ai ngồi mát ăn bát vàng”. Muốn lên Thiên đàng thì cũng
phải làm sao chứ không tự nhiên mà có.
Về
vấn đề này Chúa Giêsu đã nói rõ :”Không phải cứ ai thưa với Thầy : Lạy Chúa
! Lạy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý
muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi” (Mt 7,21; Lc
6,46; 13, 26-27).
Muốn
vào Nước Trời thì phải thi hành ý muốn của Cha trên trời, nhưng ý muốn của Cha
trên trời là gì ? Chúa Giêsu không nói rõ, không cho chúng ta biết
thêm chi tiết. Ngài để cho chúng ta tìm hiểu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh
Thần.
Phải
chăng ý muốn của Chúa Cha là theo như lời Chúa Giêsu dạy :”Ai muốn theo
Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu
mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được
mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất
mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình.
Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần
của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,
24-27).
“Từ
bỏ mình” tức là đừng lấy thân xác làm mục tiêu cho mọi
phấn đấu, mọi nỗ lực của ta : cụ thể là không dành toàn bộ công sức, thời gian,
tài năng, trí tuệ để phụng sự thân xác.
“Vác
thập giá mình” là chấp nhận khổ chế, cụ thể là khước từ những đỏi
hỏi vô độ của thân xác – sự khước từ nào cũng là một thập giá, đều để lại đau
thương - để dành thì giờ và nghị lực cho sự phát triển tâm linh.
Chúa
Giêsu đã chấp nhận đời người theo hướng đó và Ngài đã đạt tới vinh hiển khải
hoàn. Ngài cũng muốn chúng ta đầu tư theo hướng Ngài đã đầu tư, bước đi theo
con đường Ngài đã bước, để chúng ta được vinh hiển như Ngài.
Cứ nhìn vào hiện tại thì biết số phận của chúng ta trong đời sống
mai hậu, bởi vì chúng ta đang xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian, như thánh
Phaolô đã nói :”Gieo giống nào thì gặt giống ấy” (x. 1Cr 15,38) như
người Việt thường nói :”Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu” :
trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu.
Về
vấn đề này, chúng ta thấy có một vị sư già thuyết pháp cho các Phật tử bằng
những hình ảnh rất hay :
“Các
Phật tử hãy nhìn vào một cây cao và to ở phía sau sân nhà chùa kia. Phần thân cây,
đang nghiêng cùng hướng với vòm lá cây xanh um của nó. Khi có một trận động
đất, hoặc một cơn giông bão ập tới, đương nhiên cây đó sẽ bị tróc gốc và ngả
đùng xuống theo hướng nghiêng mà nó đang đứng đấy. Cũng vậy, nhìn vào việc làm
tốt xấu của một người trong đời sống hiện tại, chúng ta sẽ đoán ra được sau khi
chết linh hồn họ sẽ bay đi về đâu. Trồng cây ớt, phải hái trái ớt mà ăn. Không
thể nào trồng cây me chua mà đòi ăn cho được trái ngọt ngon lành…”
Hạnh
phúc Thiên đàng chẳng qua chỉ là thành quả của những nỗ lực phấn đấu của chúng
ta ở trần gian này, là những gì chúng ta đã xây dựng ngay ở dưới đất, là những
gì chúng ta đã gửi về trời khi chúng ta còn sống.
Truyện : Ngôi nhà xinh đẹp
Một
bà giầu sang đến cửa Thiên đàng. Thánh Phêrô chỉ cho bà một căn nhà rất xinh
đẹp và bảo :”Đây là nhà tài xế của bà”.
Bà
ta mừng rỡ và nghĩ thầm :”Tài xế như thế, chắc nhà mình sẽ lộng lẫy hơn nhiều”.
Nhưng,
bước xa hơn một chút, thánh Phêrô chỉ túp lều nhỏ xíu và bảo :”Nhà của bà đấy”.
Hụt
hẫng và ngỡ ngàng, bà ta vội kêu to :”Đâu được, thưa ngài làm sao con có thể ở
trong đó được.
Thánh
Phêrô ôn tồn giải thích :”Rất tiếc con ạ, vật liệu con gửi lên đây chỉ đủ để
xây túp lều như thế.
Thiên
đàng không có nếu con không xây,
Hỏa
ngục chẳng thấy nếu con không sắm.
Con
đừng nhọc công để đi tìm đàng sau cuộc đời này một Thiên đàng, nếu
ngay cuộc sống trần gian này con chẳng thấy Thiên đàng ló dạng. Định mệnh cuộc
đời đâu phải là một lá bài may rủi. Ai cũng chết nhưng số phận khác nhau.
Bông
thẹn, cỏ may, cúc hay hồng… đều là hoa
Vòng
hoa đẹp xấu là do con kết
Thiên
đàng có được là do con sống,
Giầu
hay nghèo cũng một kiếp người,
Muốn
Thiên đàng phải sống thánh.
Thiên
đàng không trên trời cao và hỏa ngục không ở lòng sâu đất thấp – mà ở ngay
chính lòng con, con có quyền chọn cho mình chứ không phải Chúa”.
Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
(Nguồn : simonhoadalat.com)
"Lạy Chúa Giêsu xin tha tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là các linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét