Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

MƯỜI KIỂU DẠY CON

Đôi lúc trong cuộc sống bạn cần phải nhìn mọi thứ theo nhiều hướng khác nhau để dễ dàng thích nghi với mọi sự thay đổi xung quanh bạn, những câu chuyện sau đây sẽ giúp bạn nhìn mọi thứ theo hướng tốt hơn. Và cũng nên là những câu chuyện trong quá trình dạy dỗ các cháu bé.

Câu chuyện thứ nhất:
Một cậu học trò lớp ba viết rằng cậu muốn trở thành một diễn viên hài trong bài tập làm văn của mình. Người bố phê: “Không có chí lớn”, còn thầy giáo nói: “Thầy chúc em mang tiếng cười cho toàn thế giới”.
Là người lớn, chúng ta nên khuyến khích, cổ vũ hơn là đặt ra những yêu cầu quá cao đối với trẻ con. Hơn thế, chúng ta :
****hãy mở rộng khái niệm thành công để trẻ con thoải mái tung đôi cánh ước mơ của mình.

Câu chuyện thứ hai:
Ăn cơm xong, mẹ và con gái rửa chén bát trong bếp, bố và con trai ngồi xem ti vi. Bỗng nhiên có tiếng đổ vỡ dưới bếp, sau đó im bặt. Con trai nói: “Con biết chắc mẹ vừa làm bể chén bát”, bố hỏi: “Tại sao con chắc như thế ?”, con trai trả lời: “Vì con không nghe tiếng mẹ la”.
Chúng ta luôn đánh giá người khác và đánh giá bản thân qua những tiêu chuẩn nào đó, thường :
****khó khăn với người khác nhưng lại rất dễ dãi đối với mình. 

Câu chuyện thứ ba:
Người ăn mày nói: “Bà có thể cho tôi xin một ngàn không ?”, người qua đường trả lời: “Nhưng tôi chỉ có năm trăm”, người ăn mày bảo: “Vậy bà thiếu tôi năm trăm nhé”.
Nhiều người trong chúng ta luôn cho rằng ông trời mắc nợ mình, cho mình không đủ, không tốt nên :
****lòng tham đã che mất thái độ biết ơn của họ . 

Câu chuyện thứ tư: 
Người vợ đang nấu ăn trong nhà bếp, người chồng đứng bên cạnh nhắc nhở: “Cẩn thận, coi chừng khét !”, “Sao em bỏ ít muối thế ?, “Ơi kìa, nước đã sôi rồi, em cho thịt vào đi”. Người vợ bưc bội: “Anh làm ơn đi ra ngoài giùm em! Em biết nấu ăn mà !”.
Người chồng mỉm cười: “Ừ, có ai bảo em không biết nấu ăn đâu. Anh chỉ muốn em hiểu được cảm giác của anh như thế nào khi đang lái xe mà em ngồi bên cạnh cứ lải nhải hoài ”. 
Học cách thông cảm người khác không khó,
****chỉ cần chúng ta đặt mình vào hoàn cảnh của người khác. 

Câu chuyện thứ năm:
A nói với B: “Khu nhà tôi vừa dọn về một ông hàng xóm bất lịch sự. Tối hôm qua, đã gần một giờ sáng rồi mà ông ta còn qua đập cửa nhà tôi rầm rầm”. B hỏi: “Thế anh có báo cảnh sát không?”. A trả lời: “Không, tôi mặc kệ ông ta, xem ông ta như thằng điên vì lúc ấy tôi đang tập thổi kèn saxophone”.
Chuyện gì cũng có nguyên nhân, nếu biết trước lỗi của mình thì hậu quả sẽ khác đi. Tuy nhiên, chúng ta lại thường :
****ít khi thấy mình sai, nhưng lại dễ dàng thấy người khác sai.

Câu chuyện thứ sáu: 
Hai cha con đi ngang qua một khách sạn 5 sao. Trông thấy một chiếc xe hơi xịn rẽ vào, cậu con trai nhận xét:
– Những người ngồi trên chiếc xe ấy đều có trình độ học vấn rất thấp!
Người cha ôn tồn đáp lại:
– Người vừa phát biểu câu ấy là người hiện trong túi không có lấy một đồng xu!
Con người thường có thái độ “ghen ăn tức ở”, khi nói ra điều gì, nhận xét việc gì đều thể hiện trình độ và “đẳng cấp” của mình. Bởi vậy hãy thận trọng! 
****Con người thường có thái độ “ghen ăn tức ở”,

Câu chuyện thứ bảy: 
Có hai đoàn khách nước ngoài đến tham quan một địa điểm du lịch sinh thái. Do trời mưa nên đường dẫn vào khu “Kỳ hoa dị thảo” lầy lội. Người hướng dẫn của đoàn thứ nhất bảo: “Xin lỗi quý khách, chúng ta không thể đi tiếp”. Còn người hướng dẫn đoàn thứ hai suy nghĩ một thoáng rồi nói: “Để quý khách thấy rằng việc tìm kiếm kỳ hoa dị thảo khó khăn như thế nào, Ban giám đốc công ty đã cố tình tạo con đường lầy lội cho quý khách có thêm cảm xúc thực tế”.
Hoàn cảnh khác nhau, quan điểm khác nhau sẽ nhìn một sự vật không giống nhau. Tư tưởng kỳ lạ như thế đấy bạn ạ! Nếu bạn chịu suy nghĩ thì :
****quyền quyết định hoàn cảnh nằm trong tay bạn.

Câu chuyện thứ tám: 
Một phụ nữ vào tiệm kim hoàn, trông thấy hai chiếc vòng đeo tay giống nhau như đúc, một chiếc giá 2 triệu, một chiếc giá 20 triệu. Không chần chừ, bà ta liền lấy chiếc 20 triệu vì nghĩ rằng đắt tiền chắc chắn sẽ là đồ tốt. Khi vừa quay lưng bước đi, bà nghe nhân viên nói với nhau: “Không ngờ chỉ vì đính sai bảng giá mà chúng ta lời đến 18 triệu đồng!”.
Hãy xem, lắng nghe và kiểm định. Đó là lời khuyên trong câu chuyện này. Có nhiều thứ tưởng vậy, thấy vậy, nghe vậy mà không phải vậy,
****đừng vì chủ quan, tin vào suy nghĩ của mình mà lầm to.

Câu chuyện thứ chín: 
Hai vợ chồng vào xem triển lãm tranh của các họa sĩ trẻ, trong đó có một bức tranh của con trai họ. Người vợ đi rất nhanh, mắt chỉ kịp lướt vào tên của tác giả ở mỗi bức tranh. Một lúc sau không thấy chồng, người vợ quay lại tìm. Người chồng đang đứng trước một bức tranh say sưa ngắm nhìn.
Bức trang ấy lúc nãy người vợ đã xem qua. Bà bực bội nói: “Ông đứng đó làm gì vậy? Sao không đi tìm bức tranh của con mình?”. Người chồng quay sang nhìn vợ: “Đây là tranh của con mình nè, nó quên ký tên trên bức tranh”.
Trong cuộc sống, có người chỉ lo chạy băng băng nên đã không thể tìm thấy thứ mình cần tìm, đánh mất cơ hội được thưởng thức hoa nở hai bên đường.
****đã không thể tìm thấy thứ mình cần tìm,

Câu chuyện thứ mười: 
Tại buổi lễ tốt nghiệp ở một trường cấp hai, thầy hiệu trưởng đọc tên học sinh xuất sắc nhất trong năm học. Đọc đến lần thứ ba mà vẫn không thấy ai đi lên sân khấu. Thầy hiệu trưởng nhìn xuống, hỏi cậu học sinh xuất sắc đang bình thản ngồi bên dưới:
– Em không nghe thầy gọi tên à?
Cậu học sinh đứng lên, lễ phép:
– Dạ, thưa thầy em đã nghe. Nhưng em sợ các bạn chưa nghe thấy ạ!
Danh và lợi đã vô tình trở thành chiếc lồng nhốt chúng ta vào trong ấy. Chúng ta luôn giáo dục con em mình phải cố gắng học thật giỏi, phải trở thành nhân vật xuất sắc nhất nhưng lại :
**** ít khi dạy các em tính khiêm tốn.

(Nguồn : http://ditimchanly.org/)

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

GIÁO DỤC CON CÁI TRONG GIA ĐÌNH CÔNG GIÁO


1/ Quan điểm của Giáo Hội về giáo dục con cái trong gia đình Công Giáo
Giáo dục là một yếu tố rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của con người. Chính vì thế có ý kiến cho rằng muốn biết tương lai của một xã hội thì hãy nhìn vào thực trạng giáo dục hiện có của xã hội ấy. Thông thường khi nói đến giáo dục người ta nghĩ ngay đến nhà trường, các mối quan hệ thầy – trò. Nhưng quá trình giáo dục của một con người không chỉ xảy ra trên ghế nhà trường, trong các mối quan hệ thầy – trò mà còn xảy ra chính ngay trong gia đình người đó nữa. Bởi vậy người thầy đầu tiên của một người không phải là người thầy ở nhà trường mà là chính cha mẹ mình. Đức cố Giáo hoàng PIO XI, trong thông điệp Casti Connubii, đã nói: “Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan vô cùng, đã quan phòng việc sinh sản cho gia đình như thế, cho toàn thể nhân loại, thì đối với cha mẹ là những người mà Ngài đã ban cho quyền và khả năng để sinh sản, không lẽ Ngài lại không ban thêm cho bổn phận và quyền giáo dục con cái”. Thánh công đồng Vaticanô II cũng phán quyết: “Vì là những người truyền thông sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là giáo dục những người con trong gia đình, và vì thế họ được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng
Qua việc giáo dục, gia đình đào tạo con người đạt tới phẩm giá viên mãn, theo tất cả mọi chiều hướng xã hội. Tức  là gia đình là môi trường giáo dục, huấn luyện con người để có tất cả những phẩm giá, đức tính phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Hơn nữa, đối với gia đình Công Giáo thì những điều giáo dục gia đình hướng tới còn phải theo giáo huấn của Giáo Hội. Quả vậy, thánh công đồng đã nói: Trong gia đình các Ki-tô hữu, với ân sủng dồi dào và trách nhiệm đã lãnh nhận qua bí tích Hôn Nhân, cha mẹ phải dạy dỗ con cái ngay khi chúng còn trong tuổi ấu thơ, hợp với đức tin đã lãnh nhận qua bí tích Thanh Tẩy, để nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa, đồng thời yêu thương mọi người xung quanh
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cung cấp một nền giáo dục tôn giáo và một sự đào tạo luân lý cho con cái mình, một quyền Nhà nước không thể hủy bỏ mà phải tôn trọng. Bởi vì quyền và nghĩa vụ này của cha mẹ liên kết với việc lưu truyền sự sống (lưu truyền sự sống và nuôi dạy con cái là hai trục chính của Hôn Nhân), và nó cũng thể hiện mối quan hệ yêu thương giữa cha mẹ và con cái.
Như vậy, giáo dục con cái là hồng ân và cũng là đòi hỏi cấp thiết đối với mỗi người cha, người mẹ trong gia đình Công Giáo. Do đó cần có một nội dung và phương pháp giáo dục con cái hợp lý trong mỗi gia đình Công Giáo.

2/ Nội dung giáo dục con cái trong gia đình Công Giáo
Nội dung của giáo dục con cái trong gia đình Công Giáo trước hết là giáo dục để hướng đứa trẻ đến yêu mến, phụng sự Chúa và yêu thương tha nhân. Cha mẹ phải nói cho đứa con về Thiên Chúa, dạy cho chúng thấu cảm về tình thương của Ngài dành cho nhân loại. Thiên Chúa là một người Cha nhân lành, giàu lòng thương xót chứ không phải là một Thiên Chúa hay nổi nóng, hay xử phạt. Điều đáng buồn là có những bậ cha mẹ không biết dạy con cái cầu nguyện như thế nào cho đẹp lòng Chúa, rồi thì nếu con cái không nghe lời thì dọa nạt Chúa sẽ nổi giận, Chúa sẽ xử phạt. Từ đó mà vô tình gieo vào đầu con cái hình ảnh một vị Chúa tàn nhẫn, gian ác.
Bên cạnh giáo dục cho con cái biết kính sợ Thiên Chúa, các bậc cha mẹ còn phải dạy cho chúng biết yêu thương tha nhân. Không thể yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu thương anh em mình. Bởi thế, cha mẹ có nhiệm vụ giáo dục con cái yêu thương, trước hết, các thành viên trong gia đình mình, đặc biệt cần dạy cho trẻ biết thảo kính cha mẹ vì đó là một trong những điều răn của Chúa.
Yêu thương tha nhân không chỉ gói gọn tình thương đó đối với các thành viên trong gia đình mà còn phải hướng tới tình làng nghĩa xóm, tình dân tộc: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng – Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Thật đáng sợ bởi vì trong xã hội ngày nay người ta sống thờ ơ, lạnh nhạt với nhau. Tính cộng đồng, tình tương thân tương ái bị suy giảm. Con người không còn biết chạnh lòng, thương xót trước những gian truân vất vả của tha nhân nữa. Bởi vậy giáo dục cho con cái biết yêu thương là điều hết sức cần thiết trong môi trường xã hội ngày nay.
Song song với việc giáo dục cho con cái biết mến Chúa, yêu người cũng cần giáo dục cho con cái những nhân đức nhân bản. Đó là những nhân đức cơ bản, nền tảng để con trẻ có thể bước vào xã hội con người.
Vậy những nhân đức nhân bản đó là gì?  Có thể liệt kê như sau: Ngũ thường (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín), Tứ đức (Công-Dung-Ngôn-Hạnh), Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Khôn ngoan, Công bình, Can đảm, Tiết độ, Khiêm nhường, Nhẫn nại,… Đây là những nhân đức thiết yếu để một đứa trẻ phát triển toàn diện, biết cách ứng xử phù hợp và lịch sự với mọi người trong cuộc sống hành ngày.

3/ Phương pháp giáo dục con cái trong gia đình Công Giáo
Nền tảng của mọi phương pháp giáo dục là tình yêu thương bởi vì tình yêu là sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có trong tay. Hơn nữa, thánh Âu Tinh đã từng dạy rằng: “Cứ yêu rồi làm điều mình muốn”. Bởi vậy, cho dù có dùng phương pháp giáo dục nào đi chăng nữa mà không xuất phát từ tình yêu thì sẽ không gặt hái được thành công.
Trên nền tảng tình yêu thương, để giáo dục con cái trong gia đình Công Giáo diễn ra thuận lợi, xin đơn cử một vài phương pháp sau:

Trao đổi, tâm sự với con cái. Từ những trao đổi tâm sự chân tình giữa cha mẹ và con cái sẽ làm cho con cái an tâm, tin cậy vào cha mẹ. Nhờ có sự tin cậy như vậy, đứa trẻ sẽ dễ dàng nói lên những mong muốn, tâm tư của mình và từ đó các bậc cha mẹ sẽ hiểu con cái mình hơn, kịp thời can thiệp khi con cái có những hành vi không đúng mực.
Sửa phạt : Thánh Phao-lô nói về bổn phận của cha mẹ trong việc giáo dục con cái như sau: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy”. Ngày nay khi mà vấn đề nhân quyền được đề cao thì việc dùng roi vọt để sửa phạt con cái có vẻ không phù hợp lắm. Mặc dù thế phương pháp này vẫn còn giá trị của nó. Vấn đề là các bậc cha mẹ không nên sửa phạt con cái bằng roi vọt khi đang trong tâm trạng nóng giận kẻo “giận quá mất khôn”. Cũng cần giải thích rõ cho con cái biết tại sao chúng bị hình phạt như vậy. Bên cạnh đó, không nên (đúng hơn là không được) dùng những từ ngữ cay nghiệt để sửa dạy con cái. Phải dùng những lời nói yêu thương giúp con cái nhận ra vấn đề, nhận ra sai lầm của chúng để từ đó cùng giúp chúng sửa chữa lỗi lầm.
Kỷ luật: Cho dù yêu thương con cái đến mấy cũng không được quá dễ dãi với chúng. Cần phải có kỷ luật, khuôn phép. Tuy nhiên, kỷ luật cần phải linh động, phù hợp vì luật tạo ra là vì con người chứ không phải con người làm ra là vì luật. Nếu kỷ luật dễ dàng quá sẽ làm cho con trẻ coi thường khuôn phép, ngược lại sẽ gây nên tình trạng khô cứng, áp đặt.
Gương sáng: Cha mẹ sẽ không thể dạy dỗ con cái sống đúng đắn nếu như cuộc sống của chính bản thân cha mẹ cũng tà tà, lèng phèng. Trong môi trường gia đình con cái sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều bởi phong cách, lối sống của cha mẹ. Chính vì vậy, để có một cuộc sống tốt thì chính cha mẹ hãy làm gương cho con cái noi theo như lời dạy của thánh công đồng: “Nhờ có gương sáng của cha mẹ, con cái trong gia đình sẽ dễ dàng thực thi lòng nhân ái, lãnh nhận ơn cứu độ và sống thánh thiện hơn”.
Bên cạnh đó, cha mẹ cũng nên nêu lên những gương sáng về người thực việc thực trong đời sống để cùng con cái noi theo. Đặc biệt là gương sáng của các bậc thánh nhân trong Giáo Hội.

Tạm kết
Giáo dục con cái trong gia đình là một trong hai trục chính của bí tích Hôn nhân Công giáo. Nếu như truyền sinh có vai trò duy trì nòi giống và đảm bảo sự tồn tại của xã hội thì giáo dục giúp con người thực sự là người hơn trong xã hội mình đang sống. Chính vì vậy giáo dục con cái trong gia đình Công giáo đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp con người trưởng thành hơn trong việc kính Chúa và yêu người. Bởi thế, chúng ta cần quan tâm thúc đẩy và xây dựng một nền giáo dục gia đình xứng đáng với tầm quan trọng vốn có của nó.
Giuse Trần
(Nguồn : http://ditimchanly.org/)

Thứ Tư, 20 tháng 7, 2016

CHA TÔI



Vợ sinh. Tôi đón cha lên thành phố. Nếu nói là đón mẹ lên thì thích hợp với hoàn cảnh hơn. Nhưng mẹ tôi đã xa cõi đời từ lúc tôi lọt lòng. Sự ra đi của mẹ, trong thâm tâm tôi vẫn luôn là một sự đánh đổi quá nghiệt cùng của tạo hóa, mà nỗi đau đớn còn dành lại một vị đắng ở đầu môi. Và người ở lại phải sống tốt cho cả hai phần đời. Tôi đã có thật nhiều cố gắng.
cha tôi, người đàn ông lam lũ. Cha gầy, gầy lắm, mà không phải chỉ gầy do sức khỏe, mà thời gian đã ngấm dần trong từng thớ thịt cha, già cỗi và yếu ớt. Người đàn ông cô độc ngần ấy tháng năm của tôi.
Bao nhiêu lần ôm cha ngủ. Từ bé, lúc lớn lên đi xa trở về, hay khi tôi đi làm có tiền thường gọi điện cho ông: “Cha, lên thành phố với con, con lo được mà”. Ông hỏi dò “Có thiệt không đó, cu con? Không để tiền cua gái hả?” Rồi ông cười khà khà.
Hôm sau đã có mặt ở nhà tôi. Mang nào gà, nào vịt, nào trái cây. Và không quên mang theo một cúc rượu để cha con nhâm nhi. Nhưng sao lần này, nằm cạnh ông, nhìn ông ngủ, tôi …tôi không diễn tả nỗi cảm xúc của mình. Nước mắt ở đâu cứ như nước sôi đang đun trào, cứ thế đẩy vung mà ra. Chắc vì tôi mới được làm cha, chắc lẽ thế.
Tôi lấy vợ rất muộn. Vợ là người thành phố, con nhà danh giá. Nhưng với nỗ lực và cố gắng của mình, tôi độc lập về kinh tế, không phải dựa bóng nhà vợ.
Khi mọi người quây quần quanh thằng Mỏ (con trai yêu quý của tôi), nhìn nó kháu khỉnh đáng yêu quá. Nhà vợ rất đông người tới. Ai cũng đòi được bế thằng Mỏ nụng nịu.
Bà ngoại thằng Mỏ, người rất khó tính, nói: “Ông Nội bế cháu đích tôn một chút này”, cha đưa tay ra định bế thì bà ngoại khựng lại.
“Trời ơi, tay ông nội sao thế, thế thì hỏng da của cháu mất….”. Bà ngoại giữ thằng Mỏ lại trong lòng, vừa nói vừa nhìn bàn tay cha tôi dò xét.
“Ờ….vâng, tôi lỡ…để tôi…đi rửa..”. Cha tôi ấp úng rồi đi ra nhà sau để rửa tay.
“À, chắc ông mới làm than đó má”. Tôi nói đỡ, rồi theo cha ra sau. Mọi người lại xúm lại đòi bế thằng Mỏ. Cha tôi rửa tay, và đúng là ông làm than thật. Tức là ông phơi mớ than củi mang từ quê lên để cho vợ tôi nằm hong, khỏi nhức mỏi đau lưng sau này. Nhưng ông làm xong từ sáng sớm rồi kia mà, lẽ nào cha tôi đã già nên lẩm cẩm rồi, chẳng còn nhớ mà rửa tay nữa. Cha ơi…
Thấy ông đứng cặm cụi rửa tay, khó nhọc. Tôi tiến lại “Cha, để con rửa cho cha”.
“Thôi đi cu con, hồi bé cha rửa tay rửa chân cho mày, giờ học đòi à, nhưng chưa đến lúc đâu….”.
“Đưa con coi nào”, tôi giằng lấy tay ông. Trời ơi, hai bàn tay ông chai sần, những lớp da bị tróc mẻ, nham nhỡ đỏ lừ.
“Cha bị sao thế, cha đừng rửa bằng xà bông nữa”… Tôi nói.
“Ờ, hồi trước, hồi trẻ ấy, cha mày đi xây, bị xi ăn, bị dị ứng. Hôm qua tao thấy trước sân nhà mày có chỗ bị hỏng, tao hòa ít xi gắn lại. Ai ngờ lâu thế mà nó cũng bị lại…”.
Ông nói rồi lững thững đi vào. Vừa đi vừa chùi chùi hai bàn tay vào áo, cái dáng còng còng như oặn trĩu bởi yêu thương. Cha bước đi không còn vững nữa rồi, năm tháng ơi...!
Là trưởng phòng kinh doanh một công ty, tôi đi tối ngày, tranh thủ chạy về lúc trưa, lúc tối muộn. Nên cha làm gì, mọi người làm gì tôi cũng không rõ hết. Nhà tôi ở ngoại ô. Có một khoảng sân nhỏ, trồng một ít cây cối. Trong những tháng ngày này, được làm cha, được sống trong cảnh gia đình sum vầy thế này.
Tôi ngỡ cuộc đời như một giấc mơ. Hay đúng hơn là cuộc đời ai rồi cũng đến lúc sống đúng như một giấc mơ, khi đã cố gắng thật nhiều.
Từ chuyện bàn tay, mà cha chưa bế cháu Mỏ một lần nào. Không chỉ vì ánh mắt e dè của bà ngoại thằng Mỏ. Mà có lẽ ông tự ái (bệnh người già mà), ông muốn mọi người được vui. Và hơn hết ông thương thằng Mỏ, như bà ngoại nói “da cháu còn nhạy cảm, như thế là không tốt”.
Tôi cũng chỉ im lặng. Vì nghĩ rằng mọi thứ đều hợp lý. Hay là tại vì cha là đàn ông (yêu thương để trong lòng)? Ít ra cha cũng không như bà ngoại, khi một ngày không ẵm thằng Mõ vài lần nũng nịu là ăn cơm không nổi.
Thế là cha tôi, ngày ngày lầm lũi ngoài khoảng sân nhỏ. Ông nấu nước Vằng (một loại lá cho người đẻ uống rất tốt), ông quét sân, thỉnh thoảng qua chỗ mấy ông già cùng khu phố ngồi chơi. Rồi lại thỉnh thoảng về ngắm thằng Mỏ. Vợ tôi còn bảo “ở nhà ông còn giặt cả tả, quần áo cho Mỏ”.
Mặc dù có bà ngoại, hay mấy cô em vợ tôi, mà họ toàn giặt máy. Nhưng khi chưa kịp bỏ vào máy là ông lại bê đi giặt tay. Bà ngoại cũng không muốn ông phiền lòng, nên cũng đành im lặng. Nhưng tôi biết sau đó bà ngoại lại lén bỏ vào máy giặt lại, may mà bà không để cha biết….
Thời gian cứ thế trôi đi, cuộc sống bình lặng êm đềm. Nhưng tình cảm trong tôi đang dậy sóng, vì từ Cha thiêng liêng, mỗi lúc vợ hay bà ngoại bế thằng Mỏ đều chỉ vào tôi bảo “Gọi ba đi, ba ba, ba ba”. Thằng bé chỉ nhìn rồi cười, đáng yêu vô vàn vô tận.
Cho đến một ngày, khi tôi đang đi công tác tỉnh, vợ gọi điện “Chồng, về nhà đi, ông nội vào viện rồi”. Tôi về ngay, về liền. Cha tôi đứng lên chiếc ghế đẩu để phơi tả cho thằng Mỏ, bị trượt ngã.
Khi tôi về đến nơi ông đã tỉnh, bác sĩ ái ngại nhìn tôi bảo cha chỉ bị chấn thương nhẹ, cần điều trị vài ngày là hết nhưng tinh thần thì đáng lo, cần để tâm tới ông nhiều hơn. Bà ngoại và vợ nhìn tôi ái ngại. Nước mắt tôi cứ chực tuôn chảy. Cha ơi...!
Tôi về nhà lấy đồ cho cha. Tôi lục túi của ông. Một ít quần áo, một tút thuốc quê đã hút phần nữa. Và…một cuốn sổ, nhỏ bằng lòng bàn tay, màu nâu cũ kỹ, một chiếc bút được kẹp ở giữa. Tôi tò mò, tôi mở nó ra, mở ngay trang đang kẹp bút.
Tôi đọc:
“Vậy là cháu nội tôi đã chào đời được một tuần. Nhìn con trai vui, mới biết mình đã già, đã sống hết phần đời mình mất rồi. Buồn vui lẫn lộn. Khi về bên kia gặp vợ, có thể an lòng. Nhưng mà sao già này buồn quá. Muốn được ôm thằng Mỏ vào lòng quá. Mà…. Già này nhớ những tháng ngày xưa, khi vợ bỏ lại hai cha con ra đi, một mình nuôi con trai. Một mình bế nó trên tay, một mình cho nó uống sữa, một mình ru nó ngủ, trong đêm thâu. Ôi mới như hôm qua đây thôi, mà sờ lên mái tóc đã bạc trắng mất rồi. Con trai à, cháu Mỏ à, già này yêu hai cu lắm… Bàn tay chết tiệt này, sao mày lại giở chứng đúng lúc thế…”.
Tôi lật tiếp những trang viết đầu, những ngày tháng đầu:
“Vợ, anh nhớ em, nhớ nhiều…anh không có gì để ví được”…. Em yên lòng, anh sẽ nuôi con, anh sẽ sống cho cả hai cuộc đời, anh sẽ làm được… “Vợ, anh không chịu được nỗi đau này…..” “Vợ ơi…”
Dài lắm, tôi đọc mãi, đọc mãi, đến lúc những dòng chữ nghệch ngoạc của cha nhòa đi bởi nước mắt tôi nhỏ xuống. Tôi mới dừng lại. Cha viết nhật ký. Ông giấu tôi kỹ quá, giấu tài quá. Đàn ông như cây Lim cây Táu, mà tâm hồn ông như Liễu như Mai, rũ xuống vì yêu thương, rũ xuống vì tình cảm, rũ xuống vì cô độc. Ôi, cha già của con!
“Anh ơi làm gì lâu thế, đi đưa đồ vào cho nội thay đi, anh còn ngủ ư”. Vợ tôi kêu vọng lên lầu.
“Ờ…anh biết rồi….”. Tôi quẹt nước mắt. Gấp nhật ký của cha, bỏ lại cẩn thận. Tôi phải lén đi ra, bởi không muốn ai nhìn thấy mình đang khóc, rồi phi ngay xe tới bệnh viện. Cứ tưởng được làm cha, cảm thấu được nổi thương xót khi cha mình đã ở tuổi xế chiều.
Nhưng mà, thực sự giờ tôi mới nghiệm ra một điều, là với cha mẹ, dù mình có đi mòn cả lối đời cũng không thể nào thấu hết những tình thương yêu mà họ dành cho con cái. Không thể hết được đâu. Cho nên, dù ở vị trí nào, cũng chỉ biết sống cho tốt, cho thật tốt, thế mà vẫn cảm tưởng như tình cảm mình đáp lại cho mẹ cha cũng chỉ là gáo nước giữa đồng khô nắng cháy mà thôi. Những hình ảnh về cha hiện lên trong đầu, mắt tôi đỏ ngầu hoen lệ, chứa chan.
“Cha…”, tôi mở cửa phòng bệnh viện.
“Gì đấy cu con, cha đây mà, cha có trốn đi đâu chớ, cái thằng này”. Cha vẫn gọi tôi như thế. Cả phòng bệnh đông lắm. Cha tôi ngồi dựa vào tường, tay đưa gói bánh cho đứa trẻ con ai ở giường bên, cha bụm bụm vào má nhóc con đó.
Tôi chạy lại, mặc kệ ai nhìn, mặc kệ là gì đi nữa, tôi ôm lấy cha. Tôi quay mặt vào tường, cho những giọt nước mắt lăn chảy không ai thấy, tôi nói trong tiếng nấc: “Cha, xin lỗi cha, con đã quên...”
Bệnh viện âm thanh ồn ả vốn dĩ, mà sao tôi nghe yêu thuơng đập đầy nơi tim…

(sưu tầm)

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

LỄ GIỐ CHA CỐ AN TÔN BÙI HỮU NGẠN 2015 TẠI ĐÀ NẴNG

Một số hình ảnh Lễ Giỗ cố Tuyên úy AN TÔN BÙI HỮU NGẠN và Quý Cha cố Linh hướng các Xứ Đoàn HTDC ,các Anh chị em cựu trưởng HTDC đã qua đời tại Nhà thờ Giáo xứ An ngãi , Đà Nẵng vào năm 2015 .
Năm nay Liên Đoàn HTDC Thánh Linh , Giáo Phận Đà Nẵng cũng tổ chức lễ giỗ vào ngày 18/7/2016 tại Nhà Thờ An Ngãi để được viếng mộ quý Cha Cố tại đất Thánh .
Riêng Gia Đình An Hòa , các cựu học sinh Gioan XXIII, các ACE cựu HTDC An Hòa Đà Nẵng (cũ) sẽ tổ chức lễ giỗ Cha Cố An Tôn vào ngày thứ bảy 23/7/2016 tại nhà thờ Giáo Xứ Ngọc Lâm , Đồng Nai .












Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2016

CHỌN PHẦN TỐT NHẤT- THIÊN PHÚC



SUY NIỆM 
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN C - 17/7/2016

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:

- Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:

- Thưa thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:

- Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?

Chàng sinh viên liền hỏi:

- Thưa thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy xúc cảm, ông trả lời:

- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!

Chúa phán: “Marta, Marta! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Phần tốt nhất ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.


Nhà bác học đại tài Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không cho đó là vĩ đại, mà ông nói: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi”.

Mẹ Têrêxa Calcutta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Calcutta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì cầu nguyện trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ. Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này. Hãy nhớ lời Chúa: “Không có Ta, chúng con không làm gì được”.

Các triết gia Phương Tây có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia Phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là: “Cầu nguyện và hoạt động”, Marta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P.Graef có một câu nói rất thâm thúy: “Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”. Tuy nhiên, có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Marta lăng xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để được tiếng khen, để gây chú ý: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Chúng ta mời gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình. Đôi khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm chính mình!




                 PHẦN TỐT NHẤT
               (Phỏng theo Lc 10. 38-42)
      Nhà kia một chị một em
Thành tâm đón Chúa, Chúa bèn đến thăm.    
     Mát Ta, người chị chuyên chăm,
Luôn tay bận rộn việc làm tiếp tân.
      Ma Ri (a) mặc chị ân cần,
Ngồi bên chân Chúa định thần lắng nghe
      Lời Chúa răn dạy mọi bề
Khôn ngoan, tỉnh thức, chớ hề buông lơi.
      Mát Ta bước tới, lạy Người:
Xin cho em nó giúp tôi chút nào,
      Tôi đang vất vả biết bao
Mà Thầy chẳng biết hay sao, thưa Thầy
      Chúa rằng: Hãy nhớ điều này
Mát Ta bận rộn điều này việc kia,
      Một điều cốt yếu hãy ghi
Ma Ri đã chọn: lắng nghe Tin Mừng,
      Điều này tốt nhất vô song
Không ai cướp mất và không hao mòn
      Hôm nay Thầy dạy các con…   

                                        Thế Kiên Dominic

Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2016

CÓ ĐƯỢC PHÉP TRƯNG VÀ TÔN KÍNH CÁC ẢNH TƯỢNG CHÚA, ĐỨC MẸ VÀ CÁC THÁNH KHÔNG ?


Hỏi: Việc đúc, vẽ , trưng bày và tôn kính các ảnh tượng Chúa Kitô, Đức Mẹ và các Thánh có phải là hình thức thờ ngẫu tựơng (idolatry) như anh em Tin Lành thường chỉ trích Giáo Hội Công Giáo không ? 

Trả lời:
Sở dĩ anh em Tin Lành (Protestants) nói chung thường chỉ trích Giáo Hội Công Giáo về việc đúc, tạc, vẽ ảnh tượng Chúa ( Iconography) vì họ dựa vào những điều răn trong Sách Đệ Nhj Luật qua đó Thiên Chúa cấm dân Do Thái “không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời… không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ : vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của người là một vị thần ghen tương..” ( Đnl 20: 4-5)
Nhưng phải nói ngay là Giáo Hội Công Giáo đâu có dạy tín hữu tôn thờ các ảnh tượng( iconolatry) mà chỉ tôn kính ( venerate, honour) vì những lý do chính đáng sau đây:

Trước hết, với Thiên Chúa Cha, Người là Đấng vô hình , vô tượng , không ai đã nhìn thấy Chúa bao giờ, nên không thể tạc vẽ được dung nhan của Người cách nào được.
Đọc Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta chỉ thấy Thiên Chúa xuất hiện và nói với ông Môsê một lần qua hình ảnh “Bụi gai bốc cháy” mà không bị thiêu rụi.(x Xh 3:1-6). Đến thời Tân Ước, Thiên Chúa Cha đã cho nghe tiếng Ngài phán ra từ trời cao trong dip Chúa Giêsu từ sông Jordan bước ra sau khi nhận phép rửa của Gioan :“ Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.(x.Lc3:22).

Và một lần nữa, khi Chúa Giêsu dẫn ba Tông đồ Phê rô, Giacôbê và Gioan lên núi Taborê, nơi đây bất ngờ Chúa Giêsu đã biến đổi dung mạo trước mắt các ông và bỗng chốc có tiếng Chúa Cha từ trời phán ra:“Này là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”(Mc 9:7).

Đó là tất cả hình ảnh và tiếng nói của Đức Chúa Cha trong Kinh Thánh Tân và Cựu Ước.

Về Chúa Thánh Thần, thì Kinh Thánh chỉ cho ta thấy hai hình ảnh: một là hình chim bồ câu đáp xuống ngự trên Chúa Giêsu sau khi Chúa chịu phép rửa tại sông Gio-đan.(x.Mt 3:16). Và lần nữa trong dip Lẽ Ngũ Tuần (Pentecost), Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa đậu xuống trên từng Tông Đồ đang tụ tập trong nhà đóng kín cửa (Cv 2:3)

Ngược lại với Chúa Giêsu thì khác. Người là Thiên Chúa thật cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.Nhưng khi nhập thể làm Con Người thật, Chúa Giêsu “đã mặc lấy xác phàm” để trở nên giống con người về mọi phương diện ngoại trừ tội lỗi.

Chính trong thân xác, hình hài và dung mạo Con Người của Chúa Giêsu mà Chúa Cha, Đấng vô hình vô tượng, được nhìn thấy cách cụ thể hữu hình qua chính lời Chúa Giêsu đã nói với Philiphê như sau: ” Ai thấy Thầy thì thấy Chúa Cha Sao anh lại nói : xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?”(x. Ga 14: 9) .

Như vậy, Chúa Giêsu là Bi tích, là hiên thân hữu hình của Chúa Cha giữa các môn đệ và những ai có diễm phúc đã được gặp và thấy Chúa Giêsu trong suốt ba năm Người đi rao giảng Tin mừng Cứu Độ, chữa lành các bệnh nhân và làm nhiều phép lạ như đã được ghi chép trong bốn Phúc Âm..

Đức Mẹ,Thánh Cả Giuse và các Thánh nam nữ đều là loài thụ tạo, tức là con người như chúng ta nên các ngài phải có thân xác như mọi người trần thế.

Vì vậy , trước hết, việc đúc tượng và họa hình Chúa Giêsu-Kitô là điều được khuyến khích theo giáo lý của Giáo Hội : “Vì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể khi mặc lâý nhân tính và có thân xác giới hạn rõ ràng, cho nên, khuôn mặt loài người của Chúa có thể được vẽ ra theo trí năng con người có thể hình dung ra được. Liên quan đến việc này, trong khoá họp thứ 6 của Công Đồng đại kết tại Nicea năm 787, Giáo Hội đã nhìn nhận việc hoạ lại hình dung của Chúa Giêsu trong các ảnh tượng thánh là điều chính đáng”.(x. SGLCG,số 476)

Từ đó, việc tạo chân dung và hình ảnh (Statues and Icons) của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh để tôn kính trong Nhà Thờ, Nhà Nguyện hay ở tư gia là điều chính đáng được phép làm trong Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống (Orthodox) trừ anh em Tin Lành xưa nay vẫn chỉ trích việc này là thờ ngẫu tượng= (idolatry), hoặc thờ ảnh tượng (Iconolatry).

Để trả lời cho vấn nạn trên và cũng để giúp quí tín hữu khắp nơi hiểu rõ lý do vì sao Giáo Hội Công Giáo cho phép dùng ảnh tượng trong việc thờ phượng , tôi xin được giải thích thêm chi tiết như sau:

Trước hết, chúng ta cần biết điều quan trọng này : đành rằng Thiên Chúa cấm dùng bất cứ hình ảnh nào do bàn tay con người làm ra để mô phỏng hay tượng trưng Thiên Chúa (x. Deut 4:15-18; SGLCG, số 2129). Nhưng mặt khác, Chúa cũng đã truyền cho dân Do Thái phải khắc ghi các Điều Răn của Ngài vào đá tảng, phải làm một Hòm Bia bằng gỗ bọc vàng ròng cả trong lẫn ngoài và đúc hai tượng thần hộ giá đặt ở hai đầu của Hòm Bia mà bên trong có chứa đựng các Điều Răn của Chúa như Giao Ước giữa Ngài và Dân Do Thái.(x. Xh 25: 10-22). Như thế Hòm Bia tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân của Ngài. Điều này cho thấy Thiên Chúa vẫ n cho phép dùng những vật hay hình ảnh cụ thể như những biểu tượng (symbols) để giúp con người hướng lòng lên tới Ngài là Đấng vô hình vô tượng, vượt quá tầm hiểu biết và hình dung của tâm trí con người như Giáo Hội đã dạy như sau:

“Ngay từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã truyền hoặc cho phép làm ra nhữ ng hình ảnh như những biểu tượng dẫn đến ơn cưú độ nhờ Ngôi Lời Nhập thể : đó là con rắn bằng đồng , Hòm Bia Giao Ước và các thiên thần sốt mến. ( x. SGLCG, số 2130).

Chúng ta cần phân biệt sự khác nhau về ý nghĩa và mục đích của hai từ ngữ tôn kính (veneration) và tôn thờ (adoration).

Tôn thờ là hành động thờ lậy và yêu mến cao nhất (latria)chỉ dành cho một mình Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa toàn năng mà thôi. Đức Mẹ được tôn kính ở mức Hyperdulia trong khi các Thánh nam nữ được tôn kính ở mức Dulia, tức là được mến mộ chứ không được tôn thờ. Ảnh tượng chỉ giúp con người dễ nhận biết để hướng tâm hồn lên tới Chúa, Đức Mẹ và các Thánh mà các ảnh tượng kia là biểu tượng hay vật súc tác thiêng liêng chứ không phải là hiện thân của Chúa, của Đức Mẹ và các Thánh.

Như thế, ta phải tôn thờ một Thiên Chúa, tôn kính Đức Mẹ và các Thánh mà ta không nhìn thấy bằng giác quan chứ không được thờ lậy hay tôn kính các ảnh tượng kia như chính hiện thân của Chúa, Đức Mẹ và các Thánh.

Nói khác đi, chi khi nào tôn thờ, tôn các kính ảnh tượng như chính Thiên Chúa, Đức Mẹ và các Thánh hiện diện trong các ảnh tượng đó thì đây mới là hình thức thờ ngẫu tượng (idolatry) hay thờ ảnh tượng (iconolatry) tức là điều nghịch với đức tin cần phải ngăn cấm.

Ngược lại, nếu chỉ dùng ảnh tượng như phương tiện hữu ích để nâng lòng lên tới Thiên Chúa, Đức Mẹ và các Thánh mà ảnh tượng kia là trung gian tượng trưng thì không có gì lỗi nghich điều răn thứ nhất về đức thờ phượng . Ngay cả với Chúa Kitô, dù Ngài có thân xác, hình hài như mọi người chúng ta, nhưng tượng Chúa chiụ nạn trên thánh giá, hay hình ảnh Chúa Hài Nhi nằm trong máng cỏ, cũng chỉ là những biểu tượng giúp ta nhớ đến Chúa Kitô đích thực đang ngự bên hữu Chúa Cha ở trên trời, và hiện diện bí tích thực sự trong Phép Thánh Thể nơi trần gian. Cho nên, ta phải tôn thờ với tất cả lòng kính yêu Chúa Kitô thực sự hiện diện trong hình bánh và hình rượu mỗi khi bí tích Thánh Thể được cử hành.

Ngoài bí tích Thánh Thể , Chúa Kitô không hiện diện tương tự trong các ảnh tượng khác của Chúa, như tượng Chúa chịu nạn, hình Bữa Tiệc Ly, Máng cỏ hay hình Chúa tỏ lòng thương xót cho thánh nữ Faustina.v.v .

Cũng vậy đối với Đức Mẹ, và các Thánh nam nữ , hình ảnh của các ngài mà người ta đúc nặn hay tô vẽ mỹ thuật đến đâu thì cũng chỉ là biểu tượng giúp đánh động niềm tin và lòng yêu mến , tôn kính và biết ơn ( esteem,veneration and gratitude) của ta đối với Mẹ và các Thánh đang vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên Thiên đàng, chứ không hề hiện diện thực sự nơi các ảnh tượng đó, dù được làm bằng vàng, bạc, gổ quí hay đá kim cương, cẩm thạch và trưng bày ở bất cứ nơi linh thiêng nào trên thế giới và trong Giáo Hội.

Tóm lại, ta không được phép coi các ảnh tượng như chính hiện thân của Chúa, Đức Mẹ, và các Thánh, trừ Phép Thánh Thể. Các ảnh tượng chỉ là các phụ tích hay á bí tích (sacramentals) nhắc nhở chúng ta nhớ đến để yêu mến tôn thờ Chúa và tôn kính Đức Mẹ và các Thánh đang ở trên trời mà thôi. Dầu vậy, chúng ta cũng phải dành cho các Á bí tích này một sự kính trọng đúng mức, vì Công Đồng chung thứ VII, họp tại Nicêa năm 787 đã biện minh cho việc tôn kính các ảnh tượng thánh, chống lại những người phá hủy( iconoclasts) các tượng thánh như ảnh tượng Chúa Kitô, ảnh tượng Đức Mẹ, các thiên thần và tất cả các vị thánh. Khi nhập thể , Con Thiên Chúa đã khai mạc một chương trình mới, một kế hoạch mới về các ảnh tượng.(x.Sđd,số 2131)

Mặt khác, tuy Giáo Hội cho phép đúc và vẽ chân dung Chúa Kitô, Đức Mẹ và các Thánh, nhưng việc này phải được thực hiện sao cho phù hợp với đức tin, văn hoá và phong hoá của các dân tộc. Nói rõ hơn, không thể vẽ chân dung, ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các Thánh một cách lãng mạn, thiếu nội dung đức tin và đường nét trang trọng linh thiêng giúp đạt mục đích tôn kính trong phụng vụ và đời sống tín hữu.

Thánh Gioan Damascene (675-749) đã nói như sau về nét đẹp thiêng liêng của các ảnh tượng thánh : “Vẻ đẹp và mầu sắc các ảnh thánh kích thích việc cầu nguyện của tôi. Đó là một lễ hội cho đôi mắt tôi, cũng như phong cảnh đồng quê kích thích tâm hồn tôi ca tụng vinh quang của Thiên Chúa”. ( De imag. 1,27)

Ngày nay, các tín hữu thuộc nhiều sắc dân đều có khuynh hướng muốn hội nhập đức tin vào văn hoá (inculturation of faith), nên đã vẽ ảnh tượng Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse, vốn là người Do Thái, da trắng thành da đen, da đỏ, da ngăm ngăm tùy theo sắc thái văn hóa và chủng tộc của người tín hữu.

Người Công giáo ViệtNam chúng ta cũng đã có tượng Đức Mẹ LaVang với y phục và nét ViệtNam riêng biệt. Người Mễ Tây Cơ có Đức Mẹ Guadalupe, người Pháp có Đức Mẹ Lộ và dân Bồ Đào Nha có Đức Mẹ Fatima v.v. Giáo Hội không ngăn cấm việc tạc tượng với những sắc thái riêng biệt này. Nhưng chúng ta cũng không nên đặt nặng vấn đề hội nhập đức tin vào văn hoá mà đưa vào nghệ thuật thánh những hình ảnh, hay nét vẻ quá tự do khiến cho đức tin và lòng sùng mộ của người tín hữu bị thương tổn, chia trí khi ngắm nhìn các ảnh tượng phóng khoáng đó. Thí dụ, về các Thánh tử đạo Việtnam thì không thể vẽ thiếu nét lịch sử về y phục và sắc thái điạ phương, khiến cho tín hữu con cháu ngày nay và mai sau có thể hiểu sai về nguồn gốc và đặc tính riêng của mỗi vị khi nhìn vào chân dung hay hình vẽ các ngài.

Tóm lại, việc sử dụng ảnh tượng trong Giáo hội Công Giáo không phải là hình thức tôn thờ ngẫu tượng (idolatry) hay thờ ảnh tượng (iconolatry) như dân ngoại (pagans) tôn thờ các thần (idols) được đúc nặn và trưng bày trong các đền thờ của họ.

Để phân biệt điều này, chúng ta cần tránh những hành động có tính chất mê tín như sờ mó vào các ảnh tượng Chuá Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh rồi làm dấu thánh giá trên mình, hay lấy khăn tay lau các ảnh tượng kia để đem vể nhà ấp ủ, tương tự như dân ngoại tỏ lòng cung kính các tượng thần của họ.

Là tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo, chúng ta phải bày tỏ lòng tôn kính các Ảnh tượng của Chúa Giêsu , Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse và các Thánh nam nữ cách xứng hợp bằng hành động cúi đầu hay hôn kính Thánh Giá, và các ảnh tượng thánh trưng bày ở tư gia hay ở nhà thờ, nhà nguyện. Nhưng phải bái quỳ ( genuflect) trước Nhà Tạm ( Tabernacle) để tỏ lòng tôn thờ Chúa Kitô đang hiện diện thực sự trong phép Thánh Thể giữa trần gian.

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn
(Nguồn :http://thanhcavietnam.net)


Thứ Sáu, 15 tháng 7, 2016

CHUYỆN CHƯA BIẾT VỀ BỨC TRANH "ĐỨC MẸ VIỆT NAM " GIÁ 5.000 USD

 Bức tranh “Đức mẹ Việt Nam” nổi tiếng thế giới bởi nét riêng biệt của “Đức mẹ” trong hình hài người phụ nữ Việt Nam. Sau nhiều năm được trưng bày ở thành Rome (Italia), cuối đời họa sĩ Nam Phong đã đồng ý bán tranh với giá 5.000 USD.

Cố họa sĩ Nam Phong người ở thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn (Ninh Bình), cả đời ông gắn với nghiệp vẽ tranh truyền thần. Ông nổi tiếng bởi những bức tranh truyền thần giống mẫu đến khó tin nên được giới hội họa trong nước rất thán phục.
Họa sĩ Hòa Bình (con trai của cố họa sĩ Nam Phong) kể, cả đời đời bố tôi chỉ chuyên tâm vào nghiệp vẽ tranh truyền thần. Nhờ vẽ tranh mà ông nuôi sống cả gia đình và hướng cho anh em tôi theo nghiệp hội họa. “Trong phòng tranh rộng chưa đầy 10m2 ở thị trấn, ngày ngày ông say mê vẽ, mỗi lúc rỗi ông lại đến nhà thờ cầu nguyện. Ông say mê hội họa hơn bất cứ thứ gì trên đời này”, anh Hòa Bình kể về cha mình.
Bản in bức tranh Đức mẹ Việt Nam đang được họa sĩ Hòa Bình lưu giữ.
Bản in bức tranh "Đức mẹ Việt Nam" đang được họa sĩ Hòa Bình lưu giữ.
Trong những tác phẩm mà họa sĩ Nam Phong đã sáng tác, ông có một bức tranh làm nên tên tuổi không chỉ nổi tiếng trong nước mà khắp thế giới. Đó chính là bức tranh “Đức mẹ Việt Nam” được trưng bày ở thành Rome (Italia) từ những năm 1950 của thế kỷ trước.
Kể về bức họa nổi tiếng của cha mình, anh Hòa Bình nhớ như in từng chi tiết về bức tranh có một không hai ở Việt Nam này. Vốn là một giáo dân nên khi đến nhà thờ, họa sĩ Nam Phong rất say mê những bức tượng và tranh thờ về chúa Giê-su, Đức mẹ Maria, các thành Tông đồ… Vì những bức tượng, tranh này đều được những họa sĩ nổi tiếng trên thế giới vẽ lại theo Kinh thánh.
“Bố tôi say mê đến nỗi sau này những nét vẽ của ông cũng mang đậm dòng tranh cổ điển của thế giới. Từ màu sắc, ánh sáng, đến đường nét, họa tiết ông đều học theo để từ đó sáng tạo cho mình những nét riêng biệt có trường phía riêng. Chính vì thế mà nhiều bức tranh như chân dung Nàng Molisa, Bữa tiệc ly… được bố tôi chép rất chuyên nghiệp”, anh Hòa Bình chia sẻ.
Sau nhiều năm cầm cọ, họa sĩ Nam Phong vẽ một bức tranh miêu tả về một “Đức mẹ Việt Nam”. Cái khó khăn lớn nhất mà họa sĩ Nam Phong gặp phải chính là chưa có hình mẫu nào để theo, cũng như việc vẽ về Đức mẹ Việt Nam làm sao để toát lên được những nét riêng biệt của hình mẫu người phụ nữ Việt Nam trong tranh.
“Bố tôi cứ mày mò suy nghĩ, những lúc bế tắc ông lại đến nhà thờ cầu nguyện và nhìn thật sâu vào hình mấu Đức mẹ trong nhà thờ. Nhiều ngày liên tục suy nghĩ và vẽ, cuối cùng “đứa con tinh thần” của ông cũng ra đời với hình hài tuyệt mĩ. Chưa có bức tranh nào mà bố tôi đâm đắc như vậy”, anh Bình nhớ lại.
Năm 1953, tại thị trấn Phát Diệm tổ chức triển lãm tranh với chủ đề mở rộng, kêu gọi đầy đủ tầng lớp nhân dân tham gia. Ban đầu, họa sĩ Nam Phong nghĩ vẽ tranh ra là để mình thưởng thức chứ không có ý đưa đi triển lãm. Sau ông quyết định đưa bức “Đức mẹ Việt Nam” đến triển lãm với hi vọng được sự góp ý từ nhiều người. Ông không ngờ tới, khi bức tranh được trưng bày, mọi người đồ dồn hết mọi ánh nhìn về tranh của ông và không ngớt lời ca ngợi.
Bức “Đức mẹ Việt Nam” của ông nổi tiếng từ đó. Biết tin, Đức Cha phụ trách giáo phận Phát Diệm lúc bấy giờ đã ngỏ lời xin đưa bức tranh này sang Tòa thánh Vatican (Italia) để trưng bày. Được họa sĩ Nam Phong đồng ý, bức “Đức Mẹ Việt Nam” sau đó được đưa sang Ý và được những họa sĩ nổi tiếng thế giới đánh giá rất cao bởi là bức tranh đặc biệt về Đức mẹ Maria nhưng lại mang đậm nét dân tộc Việt Nam. Màu sắc, ánh sáng, đường nét, bố cục trong tranh cũng được vẽ rất tinh xảo.
“Tranh được chọn trưng bày nhiều năm tại thành Rome, nhiều người đến tham quan đã xin được in bản photo về làm kỷ niệm. Sau hơn một năm Đức Cha đưa tranh đi đã gửi lại cho bố tôi 2 vạn tiền Đông Dương tiền lãi in tranh. Đây là số tiền vô cùng lớn và ý nghĩa từ bức tranh mang lại”, anh Bình nói.
Sau nhiều năm chiến tranh, tin tức về bức tranh không được họa sĩ Nam Phong biết đến. Đầu những năm 1990, một ngày tình cờ ông gặp Đức cha Bùi Chu Tạo, chủ giáo phận Phát Diệm lúc bấy giờ sắp có chuyến sang Vatican công tác. Họa sĩ Nam Phong đã viết một lá thư gửi cho những người đang lưu giữ bức tranh với mong muốn được biết tin về “đứa con” thất lạc của mình.
“Không lâu sau đó, Đức cha Tạo báo về, bức tranh “Đức mẹ Việt Nam” của bố tôi hiện vẫn trưng bày tại thành Rome và được bảo quản rất cẩn thận. Năm 1994, trước khi qua đời bố tôi đã đồng ý bán bức tranh lại cho bảo tàng với giá 5.000 USD. Hiện những bản photo của bức tranh vẫn đang được những người trong gia đình tôi lưu giữ như một kỷ vật mà bố để lại. Đây không chỉ là niềm tự hào cho gia đình mà còn là một bức tranh độc đáo đến nay ở Việt Nam và trên thế giới chưa có bức thứ 2”, anh Bình khẳng định.
Thái Bá
(Nguồn : dantri.com.vn)